Viết bài văn phân tích bài thơ Nói với conSinh ra và lớn lên trên mảnh đất Trùng Khánh – Cao Bằng, thấm nhuần những tinh hoa, cái đẹp của dân tộc Tày, Y Phương (1948) là một nhà thơ tiêu biểu cho các dân tộc miền núi Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 7 tất cả các môn - Kết nối tri thức Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên... Quảng cáo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý I. Mở bài - Giới thiệu tác giả Y Phương và bài thơ Nói với con. - Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó truyền thống, với quê hương cùng ý chí vươn lên mạnh mẽ trong cuộc sống. II. Thân bài 1, Mạch cảm xúc của tác phẩm - Mượn lời nói với con, Y Phương gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, qua đó bộc lộ niềm tự hào về sự sống bền bỉ của quê hương mình. - Bài thơ đi từ tình cảm gia đình, mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi thân thuộc nâng lên thành lẽ sống 2. Phân tích bài thơ * Tình yêu thương, sự che chở đùm bọc của gia đình và quê hương với đứa con - Người cha nhắc nhở con về cội nguồn sinh dưỡng, cha muốn nhắc nhở đứa con nhớ và hướng tới tình cảm gia đình, cái nôi nuôi dưỡng con trưởng thành Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười + Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng niu và mong chờ của cha mẹ + Nhiều từ láy, kết hợp với nhịp thơ 2/3 tạo ra âm điệu tươi vui, quấn quýt bằng những hình ảnh cụ thể: chân phải- chân trái; tiếng nói- tiếng cười; một bước- hai bước... → Tác giả tạo ra được không khí ấm áp, quấn quýt và hạnh phúc. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười đều được cha mẹ chăm chút, đón nhận. - Người cha cho con biết niềm vui của lao động và tình nghĩa của quê hương + Con sẽ lớn lên trong câu hát, nhịp sống và lao động của người đồng mình: cuộc sống tươi vui: “Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát”. + Tác giả diễn tả những động tác cụ thể trong lao động, vừa nói lên cuộc sống lao động gắn bó, vừa hòa quyện niềm vui. + Hình ảnh thiên nhiên che chở, nuôi dưỡng con về tâm hồn và lối sống. + Người cha nhắc tới ngày cưới- ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời- đó là điểm tựa của hạnh phúc. → Người cha muốn nói với người con vẻ đẹp của vùng quê giàu truyền thống và nghĩa tình. * Phẩm chất đáng quý, tốt đẹp và truyền thống văn hóa của người đồng mình - Khi nói về quê hương, người cha tự hào khi nói về sức sống bền bỉ, mạnh mẽ mà cao đẹp của quê hương với mong muốn con tiếp nối, phát triển. + Cụm từ “người đồng mình” được nhắc nhiều lần khẳng định phẩm chất của người đồng mình, những người có lời nói giản dị, mộc mạc gợi sự yêu thương, gần gũi. - Phẩm chất của những người đồng mình hiện dần qua lời nói tâm tình của người cha + Đó là tấm lòng thủy chung với nơi chôn rau cắt rốn, một cuộc sống tràn ngập niềm vui và sự lạc quan. Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh + Bằng việc sử dụng điệp từ, điệp ngữ và cách so sánh cụ thể kết hợp nhiều kiểu câu ngắn dài khác nhau, lời tâm tình của người cha góp phần khẳng định người miền núi tuy có nhiều khó khăn vất vả nhưng họ vẫn luôn kiên cường, sống mạnh mẽ, thiết tha với quê hương. * Ước muốn của cha: + Mong con thủy chung với quê hương. + Biết chấp nhận khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin của mình. + Người đồng mình mộc mạc, dung dị, giàu ý chí và niềm tin, họ có thể thô sơ da thịt nhưng không hề nhỏ bé, yếu đuối về ý chí. + Người đồng mình biết cách nâng cao quê hương, xây dựng và duy trì truyền thống phong tục tập quán của mình. Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục + Người cha muốn nhắn nhủ con phải biết tự hào vào truyền thống tốt đẹp và lối sống nghĩa tình của quê hương và người đồng mình. + Cha mong mỏi đứa con sống cao thượng, tự trọng, chân thật dù mộc mạc, đơn sơ để xứng đáng với người đồng mình. + Con tự tin bước đi, bởi sau lưng con còn có gia đình, quê hương, bởi trong tim con sẵn có những phẩm chất quý báu của “người đồng mình”. 3. Suy nghĩ về trách nhiệm của người làm con Công ơn của cha mẹ không điều gì có thể sánh bằng và không thứ gì có thể so sánh được. Cha mẹ ngay từ khi cho chúng ta chào đón cuộc đời đã là một điều tuyệt diệu. Qúa trình nuôi nấng dưỡng dục chúng ta, đã mất bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, làm cho cha mẹ thêm nhiều nếp nhăn và sợi tóc bạc. Bởi vậy chúng ta hãy luôn luôn phấn đấu để trở thành niềm tự hào của ba mẹ, để ba mẹ mãi hạnh phúc vì đã đem chúng ta đến với cuộc đời. III. Kết bài Bài thơ Nói với con giàu hình ảnh, mộc mạc mà vẫn thơ mộng khi Y Phương thấu hiểu và thể hiện được hồn cốt, bản sắc của người dân tộc. Người cha nói với con chính là trao gửi tới thế hệ tiếp nối về truyền thống, niềm tự hào, khả năng sống bền bỉ của những con người dù “thô sơ”, “nhỏ bé” nhưng đầy tự trọng và kiên định. Liên hệ với bản thân về trách nhiệm của đạo làm con. Bài mẫu 1 Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Trùng Khánh – Cao Bằng, thấm nhuần những tinh hoa, cái đẹp của dân tộc Tày, Y Phương (1948) là một nhà thơ tiêu biểu cho các dân tộc miền núi. “Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo .Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức. Với Y Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một giọng điệu mới, một phong cách mới “(Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam). Đi từ đề tài quen thuộc: tình cảm cha con, phụ tử thiêng liêng, nhưng với Y Phương, trong làng thơ Việt Nam đã có thêm một lối đi, 1 giai điệu mới. Khác với “Chiếc lược ngà “, tình cha con được đặt trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cha con trong bài thơ được thể hiện qua lời tâm tình của người cha. Người cha đã bộc lộ lòng yêu thương con qua ước mong con sống xứng đáng, phát huy truyền thống của, gia đình, quê hương. Mượn lời người cha nói với con về tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hương với con, nhà thơ đã gợi về nguồn sinh dưỡng trong mỗi người chúng ta. Mở đầu bài thơ là khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ắp tiếng nói cười. Mười một câu thơ như tràn đầy những đầm ấm, yên vui của tình cảm gia đình, tình cảm quê hương: “Chân phải bước tới cha Một mái nhà có mẹ có cha và con hạnh phúc vì được sống hạnh phúc trong tình yêu thương. Cha mẹ đã dìu dắt, nâng đỡ con từ những bướcđi đầu tiên, đã tìm thấy niềm vui từ con. Hơn thế nữa, con còn được sinh ra, lớn lên trong tình yêu thương, vẻ đẹp của “đồng mình “. “Người đồng mình” yêu lắm con ơi !” Lao động tuy vất vả nhưng cuộc sống của “người đồng mình”tươi vui, mà rất ngọt ngào. Dáng vẻ tuy thô sơ, công việc tuy nặng nhọc (đan lờ, ken vách) nhưng tâm hồn “người đồng mình “lãng mạn biết bao nhiêu: Họ làm một cách nghệ thuật những công việc của mình (cài nan hoa ,câu hát). Con thật hạnh phúc vì con được sống giữa những con người như vậy những con người khéo tay, yêu thiên nhiên, yêu lao động, lạc quan và nhân hậu. Thiên nhiên đồng mình cũng rất đẹp: Rừng núi quê hương thơ mộng đã dành cho con những gì tinh tuý nhất (hoa), đã nuôi dưỡng con về cả tâm hồn, lối sống, “tấm lòng”. Và từng ngày, con đã lớn lên có cha mẹ nâng đón và mong chờ, có thiên nhiên thơ mộng, có cuộc sống lao động gắn bó. Con đã trưởng thành trong nghĩa tình của quê hương như vậy đó. Nói với con những điều đó, cha mong cho con hiểu những tình cảm cội nguồn đã sinh dưỡng con, để con yêu cuộc sống hơn. Dặn dò con về quê hương, về “đồng mình “, cha càng muốn con phải khắc cốt ghi xương nơi mình đã sống, đã trưởng thành. Cuộc sống của “người đồng mình” vất vả, gian nan “thương lắm con ơi “: “Sống trên đá ... đá gập ghềnh / Sống trong thung … thung nghèo đói ../Lên thác xuống ghềnh ..cực nhọc ..” Nhưng tự hào lắm con ơi, người đồng mình đã, đang và sẽ luôn sống đẹp. Họ có sức sống mạnh mẽ: vất vả nhưng khoáng đạt, gắn bó với quê hương. Họ ko chê, ko lo “gian khổ, mà vẫn sống tràn đầy “như sông như suối”. Họ mộc mạc, chân chất nhưng giàu ý chí, niềm tin, mong xây dựng quê hương tốt đẹp hơn: “Người đồng mình thô sơ da thịt Sự đối lập giữa bên ngoài: “thô sơ da thịt” nhưng bên trong ko hề nhỏ bé về tâm hồn, người đồng mình có ý chí tự làm chủ cuộc sống của mình. Qua sự liên tưởng phong phú sáng tạo “tự đục đá kê cao quê hương”, người đồng mình là những con người lao động cần cù, có nghị lực, niềm tin, mà tầm vóc, nỗi buồn, chí hướng của họ là cái cao, xa chiều kích của trái đất (Cao đo nỗi buồn /Xa nuôi chí lớn). Họ giữ gìn bản sắc dân tộc mà vẫn làm rạng rỡ quê hương như vậy bởi họ yêu quê hương sâu nặng và luôn lấy quê hương làm chỗ dựa tinh thần. Người cha muốn con yêu là yêu những điều đó, yêu những đức tính cao đẹp của người đồng mình. Cả đoạn thơ như âm vang trong những lời tự hào, sự gắn bó và tình yêu tha thiết của người cha về quê hương. Nó như trở thành một hành khúc mạnh mẽ ngợi ca quê hương. Và lời nhắc nhở của người cha với con chính là một nốt nhấn kết lại bản hành khúc của quê hương: “Con ơi tuy thô sơ da thịt Cho con thấy tình yêu thương, niềm tin tưởng của cha, người cha mong con biết sống sao cho tốt, cho xứng đáng với tình cảm của cha. Cho con hiểu cuộc sống của người đồng mình, người cha muốn con cảm thương với những khó khăn, vất vả để khao khát đi xây dựng quê hương. Ca ngợi những đức tính cao đẹp của người đồng mình, cha đã truyền cho con vẻ đẹp sức mạnh của truyền thống quê hương, mong con sống có tình nghĩa, biết chấp nhận gian khó, vươn lên bằng ý chí của mình, vững vàng trên đường đời. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con chính là lòng tự hào với quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời. Nói với con mà chính là cha đã trao tặng cho con. Cha đã vun đắp cho con những tình cảm tốt đẹp, cho con một hành trang quý và đã sẵn sàng tung cánh cho con bay đi khắp mọi nơi. Bài thơ ko dài với 28 câu thơ tự do, có câu 2 chữ, có câu 10 chữ, tất cả bay theo cảm xúc tự nhiên, dạt dào của ý thơ. Giọng thơ tha thiết, trìu mến. Ngọt ngào làm sao từng tiếng nhắc nhở, dặn dò “yêu lắm con ơi”, “thương lắm con ơi”, “Con ơi … nghe con !” . Đẹp làm sao các hình ảnh thơ vừa cụ thể, mộc mạc, cô đọng mà vừa phong phú, sinh động, giàu chất thơ. “Rừng cho hoa / Con đương cho những tấm lòng…”. Những đặc sắc về nghệ thuật cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm khác nhau của cha đã tạo nên dư âm sâu lắng cho bài thơ. Tiếng thơ trong “Nói với con” là tiếng lòng của Y Phương, tiếng lòng về tình yêu và niềm tự hào đối với quê hương, dân tộc. Tiếng cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hệ vậy! Bài mẫu 2 Ca dao từng có câu: “Công cha như núi Thái Sơn”. Có phải vì vậy mà người cha luôn khao khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi mạnh mẽ trên đường đời. Qua bài thơ Nói với con của Y Phương, người đọc nhận thấy tình cảm và mong ước của một người cha như vậy dành cho con, một thứ tình cảm nồng ấm và thiêng liêng, giản dị. Bài thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về trách nhiệm của người làm con. Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình đến tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống. Mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh cụ thể, Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười của con được cha mẹ mừng vui đón nhận: “Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười” Những câu thơ có cách diễn đạt thật độc đáọ đã cho thấy tình yêu thương của cha mẹ đối với con. Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ. Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, thời gian trôi qua, con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là cuộc sống của những “người đồng mình", rất cần cù và tươi vui: "Người đồng mình thương lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”. Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện: cài nan hoa, ken câu hát,... đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình cũng là một trong những yếu tố nuôi con khôn lớn, nâng đỡ tâm hồn con. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh, thác... đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: "Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng". Cách gọi “người đồng mình” đặc biệt gần gũi, thân thiết và gắn bó như gợi niềm ruột thịt yêu thương. Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình". Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ: “Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn”. Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như "cao", "xa", "lớn”, tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống khoáng đạt, mạnh mẽ của những "người đồng mình". Dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng họ không nhụt chí, ý chí của họ vẫn rất vững chắc, kiên cường: “Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì là phong tục” Những "người đồng mình" vượt qua vất vả để bám trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không mệt mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền thống cao đẹp. Những "người đồng mình" mộc mạc, thẳng thắn nhưng giàu chí khí, niềm tin...Người cha đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào. Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha, trìu mến. Tình cảm này bộc lộ tự nhiên, chân thực qua những lời nhắn gửi của cha cho cọn. Người cha muốn con sống phải có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận những khó khăn, vất vả để có thể: “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc” Người cha mong cho con mình sống ngay thẳng, trong sạch, sống với ý chí, niềm tin để vững vàng vượt qua mọi thử thách khó khăn. Người cha mong cho con sống phải luôn tin vào khả năng của mình, tin tưởng vào bản thân. Có như vậy, con mới có thể thành công, mới không thua kém ai cả Người cha đã nói với con bằng tất cả lòng yêu thương của mình, nói với con những điều từ đáy lòng mình. Điều lớn nhất người cha đã truyền dạy cho con chính là niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống của quê hương. Qua những lời người cha nói với con, có thể thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu mến, thiết tha và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương và niềm tin khi bước vào đời. Bài thơ đã gợi cho người đọc những niềm cảm động sâu xa và những suy nghĩ sâu sắc. Thì ra, đằng sau những lặng lẽ, thâm trầm cùa cha là biết bao yêu thương, biết bao mong mỏi, biết bao hi vọng, biết bao đợi chờ ... Con lớn lên như hôm nay không chỉ nhờ vào cơm ăn và áo mặc mà còn mang nặng ân tình của những lời dạy dỗ ân cần thấm thía. Quả là: “Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Vậy thì, là người làm con, con xin nguyện: “Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con". Chẳng những vậy, con sẽ bước theo những bước chân vững chắc mà cha để lại trên con đường cha bước đến đỉnh Thái Sơn - nguyện “sống như sông như suối”, nguyện ngẩng cao đầu “lên đường” mà không “thô sơ da thịt”. Và trên con đường ấy, con sẽ mang theo hình ảnh quê hương để tiếp tục nối tiếp cha anh “tự đục đá kê cao quê hương” thân thiết của mình. Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể hiện, diễn tả tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất giàu hình ảnh gợi tả vừa cụ thể vừa có sức khái quát cao. Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, của dân tộc. Qua lời nói với con, ta phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm của người cha dành cho con. Những bài học mà người cha trong bài thơ Nói với con có lẽ là những bài học mà bất kỳ người cha nào cũng muốn dạy cho con mình. Và những bài học giản dị, mộc mạc đó có lẽ sẽ theo con suốt trên chặng đường đời, bài học của cha - bài học đầy ý nghĩa sâu sắc. Bài mẫu 3 Tình cảm gia đình luôn là một chủ đề lớn, thu hút được sự quan tâm của các tác giả. Mỗi người có những khám phá, phát hiện riêng về chủ đề này, làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam. Góp một phần nhỏ bé nhưng cũng không kém phần đặc sắc đó là bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương. Tác phẩm là những lời nói chân thành của người cha với con, qua đó thể hiện được những triết lí, chiêm nghiệm sâu sắc của ông. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh của một đứa trẻ thật ngây thơ, đáng yêu với những bước chân chập chững: “Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ/ Một bước chạm tiếng nói/ Hai bước tới tiếng cười”. Nhưng câu thơ không chỉ dừng lại ở đó, mà sâu xa hơn tác giả muốn nói về cuội nguồn con được sinh ra là từ tình yêu thương của cha mẹ. Câu thơ với nhịp 2/3 thật nhịp nhàng, hài hòa kết hợp với biện pháp lặp cấu trúc, phép liệt kê “chân trái - chân phải”, “một bước – hai bước” “tiếng nói – tiếng cười”, tác giả đã tạo ra âm điệu vui tươi, quấn quýt, hòa hợp với nhau. Từng bước con đi luôn được cha mẹ quan tâm, chăm chút; từng tiếng con cười luôn là niềm vui, niềm hạnh phúc cho cha mẹ. Từ đó tác giả muốn hướng đến một điều cao cả hơn đó là con được sinh ra trong hạnh phúc và lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, gia đình là cái nôi ấm áp nuôi dưỡng mỗi chúng ta trưởng thành, khôn lớn. Bảy câu thơ tiếp theo lại vẽ ra khung cảnh lao động tươi vui của người đồng mình, và con cũng được lớn lên trong chính tình đồng bào ấm áp, thuận hòa ấy. Cuộc sống của người đồng mình diễn ra hết sức vui tươi: Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát. Cách gọi người đồng mình thật giản dị, thân thương, đó là những người miền mình, sống cùng trên một mảnh đất quê hương. Với ngôn từ đậm màu sắc địa phương tác giả đã vẽ ra không khí lao động vui vẻ: những chiếc lờ bắt cá dưới đôi bàn tay khéo léo của họ tạo nên những bông hoa đẹp đẽ; vách nhà không chỉ được ken bằng tre nứa mà còn được làm từ những câu hát. Câu thơ không chỉ cho thấy sự tài hoa, khéo léo của người đồng mình mà còn thấy lối sống lạc quan, yêu đời của họ. Các động từ “cài, ken” đi kèm danh từ “nan hoa, câu hát” vừa cho thấy đôi bàn tay khéo léo vừa cho thấy cuộc sống ngập tràn niềm vui. Thiên nhiên nơi đây luôn bao bọc, che chở cho con người, hai câu thơ vừa khái quát vừa có sức gợi lớn. Núi rừng quê hương không chỉ thơ mộng mà luôn tràn đầy tình nghĩa. Chính thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con cả về tâm hồn và lối sống. Quê hương đã cho con những gì tốt đẹp nhất để nuôi dưỡng con trưởng thành. Và đây chính là chiếc nuôi thứ hai nuôi con khôn lớn. Người đồng mình không chỉ tài hoa, khéo léo mà còn mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp. Trước hết họ là người có ý chí, nghị lực kiên cường vượt qua mọi khó khăn: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. Trong cuộc sống họ phải đối mặt với không ít gian nan, trắc trở nhưng họ luôn có ý chí, nghị lực để vượt qua mọi thử thách ấy. Câu thơ như một lời khẳng định: cuộc sống nhiều gian truân, vất vả chỉ rèn thêm ý chí, nghị lực cho con người. Họ còn có tấm lòng thủy chung với quê hương: “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói”. Câu thơ vừa khẳng định vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình vừa như một lời dặn dò con phải luôn có lối sống thủy chung, tình nghĩa với quê hương. Họ còn sống phóng khoáng, lạc quan, điều này được tác giả khắc họa qua hình ảnh so sánh đặc sắc “sống như sông như suối” kết hợp với thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” gợi nên cuộc sống lao động đầy vất vả, thế nhưng họ vẫn “không lo cực nhọc” rất lạc quan, yêu đời. Họ tự tin, bản lĩnh, yêu đời và họ tự tay xây dựng lên phong tục, tập quán quê hương mình: “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương/ Còn quê hương thì làm phong tục”. Câu thơ đã cho thấy những công việc hàng ngày của họ thật dung dị nhưng chính nó làm nên nét phong tục, đặc trưng cho nơi đây. Bởi vậy câu thơ đã khái quát tinh thần tự tôn, ý thức xây dựng và phát triển, bảo vệ cuội nguồn của tác giả. Qua đó người cha mong muốn con hãy kế tục và phát huy truyền thống quê hương, hãy lấy đó làm hành trang để vững bước vào đời: "Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con" Hai tiếng “con ơi” vang lên thật trìu mến, tha thiết, dồn nén biết bao tin tưởng, hi vọng của người cha vào đứa con bé bỏng, đáng yêu. Lời nói như một lời cổ vũ, động viên con hãy cố gắng trên bước đường đời để ghi dấu ấn mình trong cuộc sống. Lời thơ còn mang ý nghĩa khái quát không chỉ là lời cha nói với con mà còn là lời trao gửi, động viên đến biết bao thế hệ. Bài thơ được viết bằng giọng điệu thơ tha thiết, trìu mến. Xây dựng những hình ảnh cụ thể mà vẫn hết sức khái quát, chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mà sâu sắc vô cùng. Xây dựng bố cục thơ chặt chẽ, hợp lí, cách dẫn dắt tự nhiên, hấp dẫn. Qua bài thơ tác giả đã khái quát được một thứ tình cảm thiêng liêng bất diệt trong mỗi con người đó là tình cảm gia đình mà rộng ra là niềm tự hào quê hương, đất nước. Chính những yếu tố này nâng bước, dìu dắt mỗi chúng ta trên đường đời đầy giông bão. Kết hợp với ngôn ngữ tự nhiên, giọng điệu chân thành đã tạo nên sức hấp dẫn và thành công cho tác phẩm. Bài mẫu 4 Có thể hình dung bố cục bài thơ gồm hai phần. Tình cảm gia đình, quê hương, đầm ấm, yên vui được tác giả thể hiện trong 11 câu thơ đầu. Tình quê hương tha thiết, sâu nặng, truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người miền núi được tác giả thể hiện trong 17 câu thơ tiếp sau. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ắp tiếng nói và tiếng cười: Chân phải bước tới cha Một mái nhà có cha và mẹ, con lớn trong tình thương yêu. Hơn thế nữa, con sinh ra, lớn lên trong tình yêu, trong vẻ đẹp của người đồng mình: Người đồng mình yêu lắm con ơi Suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Tác giả đã vận dụng chính lối diễn đạt của người dân tộc miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Bằng cách diễn đạt như vậy, tác giả đã sáng tạo những hình ảnh vừa cụ thể, vừa mang tính khái quát cao mà vẫn giàu chất thơ bay bổng về vẻ đẹp trong cuộc sống của người dân miền núi: Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát – Rừng cho hoa ; và về truyền thống nghĩa tình, gắn bó, chia sẻ: Con đường cho những tấm lòng. Người cha muốn con mình thấy được vẻ nên thơ của người đồng mình để mà yêu. Cách diễn đạt độc đáo ấy còn được thể hiện ở những hình ảnh đặc sắc trong những câu thơ tiếp theo: Người đồng mình thương lắm con ơi Từ những câu thơ bộc lộ một cách cụ thể tình cảm gia đình, nghĩa tình quê hương ở phần thứ nhất, sang phần thứ hai của bài thơ, tác giả mượn lời của người con để nói về sức mạnh truyền thống, lòng thuỷ chung với quê hương. Lấy cái “cao”, “xa” của đất trời làm chiều kích của nỗi buồn và chí hướng. Đó là tầm vóc của núi cao, rừng thẳm, của những Đăm Săn, Xinh Nhã. Người cha nói cho con cũng là nhắn nhủ, khuyên răn con mình biết trân trọng nơi mình đã sinh thành (Sống trên đá không chê đá gập ghềnh – Sống trong thung không chê thung nghèo đói), sống hồn nhiên, cần cù, lạc quan để vượt qua gian khó (Sống như sông như suối – Lên thác xuống ghềnh – Không lo cực nhọc). Con hãy nhớ lấy những điều ấy để mà thương. Và cũng là để sống cho xứng đáng. Bởi vì, người đồng mình tuy mộc mạc, thô sơ nhưng không nhỏ bé. Ớ đầy, ta lại bắt gặp lối nói độc đáo của người dân miền núi trong câu Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương. Có thể thấy ở câu thơ này có hai lớp ý nghĩa: nghĩa thực và nghĩa ẩn dụ. Đục đá kê cao là hoạt động có thực, thường thấy ở vùng miền núi. Quê hương vốn là một khái niệm trừu tượng, chỉ nơi chốn sinh thành của một con người nào đó, gia đình nào đó. Nói tự đục đá kê cao quê hương là muốn khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội. Lần thứ nhất người cha nói đến người đồng mình thô sơ da thịt để nói cho con về sức sống mạnh mẽ, sức mạnh truyền thống quê hương ; lần thứ hai, người cha nhắc lại để con khắc cốt ghi xương rằng: Quê hương mình tuy mộc mạc, chân chất, người đồng mình íuy thô sơ da thịt nhưng sống cao đẹp, nên trên đường đời con phải làm những điều lớn lao, con phải sống cao thượng để xứng đáng là người đồng mình. Người cha đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh của truyền thống quê hương. Thể thơ tự do, với số câu chữ không theo khuôn định, phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt của bài thơ. Nhịp điệu lúc bay bổng, lúc nhẹ nhàng, lúc khúc chiết, rành rọt, lúc mạnh mẽ, sắc nhọn,… tạo ra sự cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm khác nhau trong những lời cha truyền thấm sang cho con. Ngôn ngữ thơ giản dị, hình ảnh thơ mộc mạc, cô đọng mà vẫn phong phú, sinh động. Quả đúng là một thứ “ngôn ngữ thổ cẩm” quyến rũ. Nhà thơ Y Phương thấu hiểu và bởi vậy lột tả được cái hồn cốt trong bản sắc truyền thống của người dân miền núi. Từ bài thơ này, người cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hệ? Bài mẫu 5 Y Phương, người con của dân tộc Tày, là tác giả bài thơ Nói với con. Nhan đề bài thơ rất bình dị, lời thơ và chất thơ rất hồn nhiên. Hai mươi tám câu thơ tự do, câu ngắn nhất chỉ có hai chữ, câu thơ dài nhất là mười chữ, phần nhiều là những câu thơ bốn chữ năm chữ; lại có câu thơ cất lên như một khẩu ngữ, nhưng rất gợi rất đậm đà vì thấm đẫm tình cha, vì cách biểu cảm chân tình, mộc mạc. Tràn ngập những vần thơ là tình thương con, là niềm tự hào đối với quê hương xứ sở. Đứng chốt ở bốn trọng điểm, như những luyến láy, những điệp cú, điệp khúc làm cho âm điệu, nhạc điệu thơ ngân vang, dào dạt.Tôi đã sinh ra và lớn lên ở đôi bờ con sông Hương thơ mộng, thuở tấm bé đã được uống vào lòng những lời thiết tha, dịu ngọt: "bà con miềng", "chị em miềng", "anh em miềng"của má ta, của chị gái ta, của bè bạn ta. Rồi những năm dài chiến tranh trên những nẻo đường hành quân, tôi đã xúc động khi chợt nghe một tiếng ru buồn, dìu dịu cất lên từ một mái nhà gianh nơi xóm vắng xa lạ:… "Nàng về nuôi cái cùng con – Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng"… Và khi đọc thơ Y Phương, ba tiếng "người đồng mình" đã vương vấn tâm hồn ta bao bâng khuâng man mác. Ta bồi hồi nhớ về tuổi thơ, nhớ giọng nói dịu hiền của má , nhớ về xứ Huế, và thật kì lạ, tôi bâng khuâng nghĩ về Cao Bằng, nơi "gạo trắng nước trong", nơi mà tôi chưa hề một lần đi tới. Thơ có hồn, có hay mới gợi nhớ gợi thương như thế. "Người đồng mình" đã kết tụ bao tình yêu thương, tự hào của Y Phương đối với "nước non Cao Bằng", nơi chôn rau cắt rốn nặng tình nặng nghĩa của mình. Hãy khẽ ngâm lên những vần thơ của anh: “Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười.” Ta tưởng như đang được ngắm một bức tranh tứ bình có bốn hình ảnh: chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười của một em bé đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói. Lúc thì sà vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha. Điệp ngữ "bước tới" và động từ "chạm" dùng rất khéo, làm nổi bật cái hồn bức tranh về gia đình hạnh phúc: đôi vợ chồng trẻ với đứa con thơ đầu lòng. “Người đồng mình yêu lắm con ơi Sao không yêu? Phải yêu nhiều, yêu lắm chứ! Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng.” Nhà văn Nguyễn Tuân từng ca ngợi ông lái đò sông Đà có "bàn tay lái ra hoa". Một nhà thơ nọ, trước vẻ đẹp yêu kiều của cô văn công đã thốt lên: "mười nụ hoa trắng ngần thơm ngát bàn tay em". Chữ "hoa", chữ "câu hát", chữ "tấm lòng" trong thơ Y Phương cũng rất ý vị. Đan lờ đánh cá, dưới bàn tay người Tày, những nan nứa, nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà được ken bằng "cầu hát". Rừng đâu chi cho nhiều gỗ quý, cho măng, cho lâm sản quý giá mà còn "cho hoa". Con đường đâu chỉ để đi ngược về xuôi, lên non xuống biển mà còn "cho những tấm lòng" nhân hậu bao dung, con đường tình nghĩa: “Gập ghềnh xuống biển lên non, Con đường tình nghĩa ai còn nhớ chăng?” (Ca dao) Với Y Phương, con đường mà anh nói với con là hình bóng thân thuộc của quê hương. Đường gần là con đường làng bản, đi vào thung vào rừng, đường ra sông ra suối… Là con đường đi học, con đường làm ăn. Đường xa, là đường đi tới mọi chân trời, đến mọi miền đất nước. Con đường tình nghĩa ấy được Y Phương nói lên một cách hàm súc, giản dị: Con đường cho những tấm lòng. Sung sướng ôm con thơ vào lòng, nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ nghĩ về cội nguồn hạnh phúc: “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.” "Người đồng mình" không chỉ cần cù và khéo léo, tình nghĩa và tài hoa, yêu đời mà còn có bao phẩm chất tốt đẹp, đáng "thương lắm con ơi". Trong bao gian khổ khó khăn thử thách, bao niềm vui nỗi buồn cuộc đời, trải dài theo năm tháng, bà con quê hương mình, "người đồng mình" đã rèn luyện, đã hun đúc chí khí, đã "cao đo nỗi buồn – xa nuôi chí lớn ", nâng cao tâm thế đẹp. Câu thơ bốn chữ, đăng đối như tục ngữ. đúc kết một thái độ, một phương châm ứng xử cao quý. Các từ ngữ: "cao đo", "xa nuôi" đã thể hiện một bàn tính sống đẹp của dân tộc Tày, của con người Việt Nam. Nếu người Kinh dùng lối nói: "ăn chắc mặc bền, chém to kho mặn, chân đất lưng trần, niêu cơm quả cà …", để phản ánh bản chất giản dị, mộc mạc của người dân quê chân lấm tay bùn quanh năm, thì Y Phương cũng dùng cách nói cụ thể, hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày như: "thô sơ da thịt" "chẳng mấy ai nhỏ bé", "tự đục đá kê cao quê hương" để khẳng định và ngợi ca tinh thần cần cù, chịu khó trong lao động, sống giản dị chất phác thật thà, không hề "nhỏ bé" tầm thường trước thiên hạ. Nếp sống tốt đẹp ấy đã tạo nên chất thơ trong sáng đáng yêu của Y Phương. Bản chất dân tộc, tinh thần nhân văn đã hòa quyện vào hồn thơ thi sĩ: “Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục.” Cha "nói với con" cũng là khuyên con bài học đạo lí làm người. Quê hương sau những năm dài chiến tranh, chưa giàu chưa đẹp, con phải biết gắn bó với quê hương: "Không chê… không chê… không lo…". Trước thử thách khó khăn, con không được sống tầm thường, sống hèn kém, sống "nhỏ bé". Phải lao động sáng tạo để xây dựng, để "kê cao" quê hương: “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc…” Nhuyễn vào lời thơ là những ẩn dụ so sánh, những thành ngữ dân gian. Điệp ngữ "sống" ba lần vang lên đã khẳng định một tâm thế, một bản lĩnh, một dáng đứng…, điều mà cha "vẫn muốn", cha mong con, hi vọng ở con. Lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay động, thấm thía. Lời cuối "nói với con" càng trở nên tha thiết. Cha nhắn con khi "lên đường'' không bao giờ được sống tầm thường, sống "nhỏ bé" trước thiên hạ. Phải biết giữ lấy cốt cách giản dị, mộc mạc của "người lao động". Hai tiếng "nghe con" là cả một tấm lòng cha bao la: Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con. Một cảnh tượng cảm động đang diễn ra trước mắt chúng ta. Cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con. Đứa con cúi đầu lắng nghe cha nói, cha dặn. Y Phương đã tạo nên một không khí gia đình ấm áp tình cha con. Y Phương là một người cha rất thương con. Anh là một người sống tình nghĩa và chung thủy với quê hương. Thơ anh rất hồn hậu và đậm đà.Y Phương là người đồng hương với Kim Đồng. Quê hương anh có hang Pắc Bó, nơi mà hơn 60 năm về trước, Bác Hồ đã sống và hoạt động giữa lòng dân để "nhóm lửa". Bạn đọc yêu quý gần xa có nhớ, có biết bài dân ca: “Nàng về giã gạo ba giăng Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm Nước Cao Bằng ngâm thì trắng gạo…” Theo tôi nghĩ bài thơ Nói với con của Y Phương là một gáo nước Cao Bằng đấy, có thể làm trong, làm mát tâm hồn mỗi chúng ta.
Quảng cáo
|