Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chíNgay từ những câu thơ mở đầu bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của “anh” và “tôi” – của những người lính cách mạng Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 8 tất cả các môn - Kết nối tri thức Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên Quảng cáo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý 1. Mở đoạn - Sơ nét về tác giả Chính Hữu qua những nét nổi bật nhất. - Giới thiệu tác phẩm Đồng chí cùng giá trị đặc sắc về nội dung. - Dẫn dắt vấn đề: cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí. 2. Thân đoạn - Điểm qua về phong cách sáng tác của Chính Hữu. - Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của Đồng chí. - Nêu hoàn cảnh xuất thân của những người lính cụ Hồ. - Hoàn cảnh gặp gỡ của con người xa lạ từ những miền quê khác nhau. - Sự gắn bó chia ngọt sẻ bùi của những người lính bộ đội cụ Hồ. - Đánh giá tác phẩm khi cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí của Chính Hữu. - Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ Đồng chí. 3. Kết đoạn - Tóm tắt nội dung và giá trị của toàn tác phẩm. - Tổng kết ý nghĩa của đoạn thơ đầu bài thơ Đồng chí. - Bày tỏ cảm xúc cá nhân khi cảm nhận 7 câu thơ đầu bài Đồng chí. Bài mẫu 1 Ngay từ những câu thơ mở đầu bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của “anh” và “tôi” – của những người lính cách mạng. Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, Súng bên súng, đầu sát bên đầu, Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Đồng chí! Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”, giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện, cùng nghệ thuật sóng đôi, tác giả cho thấy tình đồng chí, đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng cùng cảnh ngộ. Họ là những người nông dân áo vải, ra đi từ những miền quê nghèo khó – miền biển nước mặn, vùng đồi núi trung du. Không hẹn mà nên, những người nông dân ấy gặp nhau tại một điểm: lòng yêu nước. Tình yêu quê hương, gia đình, nghĩa vụ công dân thúc giục họ lên đường chiến đấu. Bởi thế nên từ những phương trời xa lạ, mọi người “chẳng hẹn mà quen nhau”. Giống như những anh lính trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ - Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ - Quen nhau từ buổi “một, hai” – Súng bắn chưa quen – Quân sự mươi bài – Lòng vẫn cười vui kháng chiến”. Trong môi trường quân đội, đơn vị thay cho mái ấm gia đình, tình đồng đội thay cho tình máu thịt. Cái xa lạ ban đầu nhanh chóng bị xóa đi. Sát cánh bên nhau chiến đấu, càng ngày họ càng cảm nhận sâu sắc về sự hòa hợp, gắn bó giữa đồng đội cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Hình ảnh sóng đôi, các điệp từ “súng”, “đầu”, giọng điệu thơ trở nên tha thiết, trầm lắng như nhấn mạnh tình cảm gắn bó của người lính trong chiến đấu. Họ đồng tâm, đồng lòng, cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương, giữ gìn nền độc lập, tự do, sự sống còn của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Và chính sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau đã giúp các anh gắn bó với nhau, cùng sẻ chia mọi gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Từ gian khó, hiểm nguy, tình cảm trong họ đã nảy nở và họ đã trở thành những người bạn tâm giao, tri kỉ, hiểu nhau sâu sắc, gắn bó thành đồng chí. Hai tiếng “Đồng chí” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng! Nó như một nốt nhạc làm bừng sáng cả đoạn thơ, là điểm hội tụ, nơi kết tinh của bao tình cảm đẹp mà chỉ có ở thời đại mới: tình giai cấp, tình đồng đội, tình bạn bè trong chiến tranh. Bài mẫu 2 "Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” Hoàn cảnh chiến đấu nơi khu rừng Việt Bắc quá khắc nghiệt, đêm trong rừng rét đến thấu xương. Cái chăn quá nhỏ, loay hoay mãi cũng không đủ ấm, chính từ hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn ấy họ đã trở thành tri kỉ với nhau. Những vất vả, khắc nghiệt và nguy nan đã gắn kết họ lại với nhau, khiến cho những người đồng chí trở thành người bạn tâm giao gắn bó. Chính tác giả cũng đã từng là một người lính, nên câu thơ đã chan chứa, tràn đầy tình cảm trìu mến sâu nặng với đồng đội. Từ “Đồng chí” được đặt riêng một dòng thơ, tuy ngắn gọn nhưng ngân vang, thiêng liêng. Tình đồng chí không chỉ là chung chí hướng, cùng mục đích mà hơn hết đó là tình tri kỉ đã được đúc kết qua bao gian khổ, khó khăn. Chẳng còn sự ngăn cách giữa những người đồng chí, họ đã trở thành một khối thống nhất, đoàn kết và gắn bó. Qua bảy câu thơ đầu của bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã sử dụng nhiều hình ảnh chân thực, gợi tả và khái quát cao đã thể hiện được một tình đồng chí chân thực, không phô trương nhưng lại vô cùng lãng mạn và thi vị. Tác giả đã thổi hồn vào bài thơ tình đồng chí tri kỉ, keo sơn và gắn bó, trở thành một âm vang bất diệt trong tâm hồn những người lính cũng như con người Việt Nam. Bài mẫu 3 "Đồng chí" là một trong những bài thơ đặc sắc của Chính Hữu khi viết về người chiến sĩ. Ở bảy câu thơ đầu, tác giả đã làm nổi bật hoàn cảnh xuất thân, hoàn cảnh chiến đấu của người lính cụ Hồ. Đó là những người lính đến từ những miền quê nghèo, lam lũ, vất vả "Nước mặn đồng chua", "Đất cày nên sỏi đá". Họ cùng có chung cảnh ngộ khó khăn, cùng nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc và gặp gỡ nhau nơi chiến trường ác liệt. Ở nơi đó, họ luôn gắn bó, đồng hành với nhau trong mọi hoàn cảnh. Tác giả sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ "Súng bên súng, đầu sát bên đầu" để nhấn mạnh sự gắn bó khăng khít của những người lính trong chiến đấu. Những đêm lạnh giá nhưng chỉ có tấm chăn mỏng, họ cùng "đắp chung chăn" để chia sẻ hơi ấm cho nhau. Ở nơi chiến trường với mưa bom bão đạn, lúc nào cũng phải đối diện với tử thần thì tình đồng chí chính là điểm tựa tinh thần để họ cầm chắc tay súng chiến đấu. Hai tiếng "Đồng chí" vang lên ngắn gọn nhưng lại như một lời khẳng định về tình nghĩa gắn bó, keo sơn không gì có thể lay chuyển được. Vậy chỉ với bảy câu thơ đầu, tác giả Chính Hữu đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính cụ Hồ với tình đồng đội, đồng chí gắn bó keo sơn.
Quảng cáo
|