Phân tích tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng lớp 81. Mở đoạn: - Giới thiệu tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng và ý nghĩa nhan đề. Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 8 tất cả các môn - Kết nối tri thức Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên Quảng cáo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý chi tiết 1. Mở đoạn: - Giới thiệu tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng và ý nghĩa nhan đề. 2. Thân đoạn: - Ý nghĩa nhan đề “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” - Cuộc đời lừng lẫy của bậc anh hùng giáng thế - Chân dung người anh hùng Trần Quốc Toản dưới ngòi bút chân thực, bằng tài năng và tâm huyết của nhà văn Nguyễn Huy - Tưởng mang hào lí lẫy lừng giống như cậu bé Thánh Gióng đánh giặc ân xưa 3. Kết đoạn: - Khái quát lại giá trị nghệ thuật và nội dung của tác phẩm, liên hệ bản thân. Bài siêu ngắn Mẫu 1 Trần Quốc Toản là một tông nhất nhà Trần với công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai. Ông đã sống và cống hiến hết mình vì sứ mệnh của dân tộc, ông ra đi để lại một tấm gương sáng về tấm lòng yêu nước cho ngàn đời sau nói theo. Câu chuyện cuộc đời ông cứ thế được lưu truyền qua bao đời nay và được ca tụng dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng với hình ảnh “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”. Ngay từ đầu tác phẩm cho ta biết về ý nghĩa nhan đề “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản. Có lẽ bởi vì Trần Quốc Toản chính là tấm bia chói lóa lý tưởng cách mạng, tấm lòng nồng nàn yêu nước, đó chính là thứ cần đó giúp lớp lớp thế hệ mầm non tương lai dựa vào. Tác giả còn khẳng định tác phẩm như một thiên truyện giáo dục, nâng cao ý thức của trẻ thơ về lịch sử nước nhà, tạo sự gắn kết, bồi đắp thêm tấm lòng biết ơn ông cha, yêu thương đất nước cho các em nhỏ. Chí lớn của Trần Quốc Toản, tác giả kể về giấc mơ khi Trần Quốc Toản còn bé, ông mơ bắt sống được tên sứ nhà Nguyên hống hách. Tuy còn nhỏ nhưng ông đã ý thức được bổn phận của đấng nam nhi, còn nhỏ nhưng ấp ủ hoài bão lớn, chính là hoài bão của dân tộc. Tuy chỉ nhỏ hơn các anh trai “dăm sáu tuổi” mà được tham gia bàn việc nước, điều đó càng làm tâm can Trần Quốc Toản nóng như lửa đốt. Thậm chí chàng còn có suy nghĩ xô ngã lính để chạy xuống nơi quan quân bàn bạc thế sự”, chi tiết đó đủ để ta hiểu được tấm lòng thương nước, lo cho dân của chàng. Đường đường là một bậc nam nhi khí phách oai hùng, sao có thế dửng dửng trước cảnh nước nhà đang khốn khó. Càng nghĩ chàng càng thêm nôn nóng, chàng quyết định xô ngã lính để vào tâu với nhà vua. Thế nhưng tài của chàng khó mà được nhà vua công nhận bởi trong mắt vua “chàng như một đứa trẻ”. Không được vua trọng dụng nhưng sao mà tránh được lệnh vua, chàng chỉ biết “bóp nát quả cam trong tay từ lúc nào”. Phải chăng bóp nát quả cam không phải vì giận hờn vua? Phải chăng bóp nát quả cam đó chính là nỗi căm hờn giặc ngoại xâm đến nỗi muốn nghiền chúng thành chăm mảnh? Đó quả thực là vì lòng khát khao yêu nước, thương dân. Ngày ngày chàng chăm chỉ luyện tập, chàng hạ quyết tâm trên bến Bình Than rằng: “Rồi xem ai giết được giặc, ai báo được ơn vua, xem ai hơn, ai kém. Rồi triều đình sẽ biết tay ta”. Người anh hùng Trần Quốc Toản xuất hiện dưới ngòi bút miêu tả tinh thế chính là thành công của tác phẩm. Bằng sức tưởng tượng phong phú, ca từ giàu chất biểu cảm, lập luận chặt chẽ, tác phẩm chinh phục tấm lòng người đọc biết ơn, ghi công người anh hùng dân tộc với tinh thần yêu nước quật cường. Đặc biệt, “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” chắc chắn rằng sẽ là một tác phẩm không bao giờ cũ dành cho thế hệ mầm non của đất nước, là tấm gương sáng cho các em noi theo. Bài siêu ngắn Mẫu 2 Lá cờ thêu sáu chữ vàng viết về người anh hùng thiếu niên Trần Quốc Toản. Tác phẩm lấy bối cảnh cuộc chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai của nhà Trần, cuộc chiến gay go và khốc liệt nhất. Sau khi có giấc mơ mang điềm báo về việc bản thân bắt sống tên sứ thần hống hách nhà Minh. Cậu đã tiến về Bình Than xin nhà vua cho cùng dự họp bàn việc nước. Thấy cậu còn nhỏ, vua ban cho một quả cam rồi đuổi ra ngoài. Ấm ức và thất vọng, khi rời đi, Quốc Toản đã bóp nát quả cam lúc nào không hay. Về nhà, cậu chăm chỉ rèn luyện võ nghệ, chờ ngày báo đáp tổ quốc. Ít lâu sau, khi giặc tấn công nước ta, Trần Quốc Toản mang theo lá cờ thêu sáu chữ vàn “Phá cường địch, báo hoàng ân” ra trận. Với sự dũng mãnh, cậu đã đạt nhiều chiến công vang dội, ghi danh vào sử sách. Có lẽ bởi vì Trần Quốc Toản chính là tấm bia chói lóa lý tưởng cách mạng, tấm lòng nồng nàn yêu nước, đó chính là thứ cần đó giúp lớp lớp thế hệ mầm non tương lai dựa vào. Tác giả còn khẳng định tác phẩm như một thiên truyện giáo dục, nâng cao ý thức của trẻ thơ về lịch sử nước nhà, tạo sự gắn kết, bồi đắp thêm tấm lòng biết ơn ông cha, yêu thương đất nước cho các em nhỏ. Bài siêu ngắn Mẫu 3 "Lá cờ thêu sáu chữ vàng" là một tác phẩm lịch sử, tuy nhiên, nó không chỉ dựa trên sự thực tế mà còn mang đến một tưởng tượng phong phú và sáng tạo độc đáo từ phía nhà văn. Trong tác phẩm này, hình tượng của Trần Quốc Toản, một anh hùng trẻ tuổi nhưng tâm hồn rộng lớn, được đặc biệt nhấn mạnh. Câu chuyện bắt đầu với một giấc mơ thú vị của Trần Quốc Toản, trong đó cậu thấy mình đã bắt sống được Sài Thung, tên sứ thần hống hách của triều Nguyên. Giấc mơ này như một dấu hiệu cho thấy cậu là người có ý chí phi thường, mặc dù còn trẻ nhỏ nhưng đã nhận thức được sứ mệnh cao cả của mình. Khi nghe tin rằng vua Trần Nhân Tông sẽ đến bến Bình Than để họp bàn về công việc quốc gia, Trần Quốc Toản quyết định cùng ngựa xuất phát để gặp vua. Trần Nhân Tông rất thích thú với cậu thiếu niên này, tuy nhiên, vì cậu còn nhỏ tuổi nên chỉ được tặng một quả cam quý, còn việc tham gia vào việc quốc gia thì chưa được phê chuẩn. Điều này khiến Trần Quốc Toản cảm thấy thất vọng và tức giận, cậu vừa đi vừa cắn chặt răng, không biết từ bao giờ quả cam trong tay đã bị bót nát. Từ đó, Trần Quốc Toản quyết tâm học tập về binh thư và rèn luyện võ nghệ. Khi nghe tin quân địch tiến đến, Trần Quốc Toản cùng với lá cờ mang sáu chữ vàng "Phá cường địch, báo hoàng ân", cùng với nhiều anh hùng dũng cảm khác, đã tham gia vào cuộc chiến. Cuối cùng, tin vui về chiến thắng tràn ngập khắp bản làng, mọi người đều hân hoan và vui mừng. Mẹ của Trần Quốc Toản đã cảm động đến nghẹn ngào khi nhìn thấy lá cờ sáu chữ vàng mà chính tay mình thêu, bay phấp phới trên trời. "Lá cờ thêu sáu chữ vàng" không chỉ là một câu chuyện lịch sử đơn thuần, mà còn mang trong mình những ý nghĩa sâu sắc về lòng yêu nước, lòng dũng cảm và sự đoàn kết của nhân dân trong cuộc chiến giành lại độc lập và tự do cho đất nước. Tác phẩm này cũng nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của sự kiên nhẫn và hy sinh trong việc xây dựng một xã hội vững mạnh và phát triển. "Lá cờ thêu sáu chữ vàng" là một tác phẩm lịch sử, tuy nhiên, nó không chỉ dựa trên sự thực tế mà còn mang đến một tưởng tượng phong phú và sáng tạo độc đáo từ phía nhà văn. Trong tác phẩm này, hình tượng của Trần Quốc Toản, một anh hùng trẻ tuổi nhưng tâm hồn rộng lớn, được đặc biệt nhấn mạnh. Câu chuyện bắt đầu với một giấc mơ thú vị của Trần Quốc Toản, trong đó cậu thấy mình đã bắt sống được Sài Thung, tên sứ thần hống hách của triều Nguyên. Giấc mơ này như một dấu hiệu cho thấy cậu là người có ý chí phi thường, mặc dù còn trẻ nhỏ nhưng đã nhận thức được sứ mệnh cao cả của mình. Khi nghe tin rằng vua Trần Nhân Tông sẽ đến bến Bình Than để họp bàn về công việc quốc gia, Trần Quốc Toản quyết định cùng ngựa xuất phát để gặp vua. Trần Nhân Tông rất thích thú với cậu thiếu niên này, tuy nhiên, vì cậu còn nhỏ tuổi nên chỉ được tặng một quả cam quý, còn việc tham gia vào việc quốc gia thì chưa được phê chuẩn. Điều này khiến Trần Quốc Toản cảm thấy thất vọng và tức giận, cậu vừa đi vừa cắn chặt răng, không biết từ bao giờ quả cam trong tay đã bị bót nát. Từ đó, Trần Quốc Toản quyết tâm học tập về binh thư và rèn luyện võ nghệ. Khi nghe tin quân địch tiến đến, Trần Quốc Toản cùng với lá cờ mang sáu chữ vàng "Phá cường địch, báo hoàng ân", cùng với nhiều anh hùng dũng cảm khác, đã tham gia vào cuộc chiến. Cuối cùng, tin vui về chiến thắng tràn ngập khắp bản làng, mọi người đều hân hoan và vui mừng. Mẹ của Trần Quốc Toản đã cảm động đến nghẹn ngào khi nhìn thấy lá cờ sáu chữ vàng mà chính tay mình thêu, bay phấp phới trên trời. "Lá cờ thêu sáu chữ vàng" không chỉ là một câu chuyện lịch sử đơn thuần, mà còn mang trong mình những ý nghĩa sâu sắc về lòng yêu nước, lòng dũng cảm và sự đoàn kết của nhân dân trong cuộc chiến giành lại độc lập và tự do cho đất nước. Tác phẩm này cũng nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của sự kiên nhẫn và hy sinh trong việc xây dựng một xã hội vững mạnh và phát triển. Bài tham khảo Mẫu 1 Trong kho tàng văn học Việt Nam, khi nhắc tới truyện lịch sử hay và đặc sắc, không thể không kể đến sáng tác “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” của tác giả Nguyễn Huy Tưởng. Tác phẩm đã giúp độc giả hiểu biết thêm về lịch sử của đất nước, đồng thời khơi dậy biết bao cảm xúc bồi hồi, rạo rực pha lẫn tự hào trong tâm hồn. Tác phẩm được sáng tác trong bối cảnh diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược lần thứ hai năm 1285. Tuy là một tác phẩm lịch sử, nhưng văn bản này được đa phần được sáng tác dựa trên sự tưởng tượng và cách sáng tạo độc đáo của tác giả. Chính điều ấy đã gây ấn tượng cho người đọc làm nên sự thành công cho tác phẩm. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng khai thác về những gương mặt tiêu biểu như Trần Nhật Duật, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải… Nhưng nổi bật nhất phải kể đến hình tượng Trần Quốc Toản là người thiếu niên tuổi còn nhỏ nhưng đã nuôi chí lớn. Câu chuyện mở đầu bằng “một giấc mơ thú vị” của Trần Quốc Toản. Trong mơ, chàng mơ thấy mình bắt sống được tên sứ thần hống hách Sài Thung của nhà Nguyên. Giấc mơ đó dường như là sự mở đầu cũng là báo hiệu cho một người có ý chí phi thường, dù tuổi còn nhỏ, nhưng đã nhận thức được sứ mệnh của mình, ngay cả trong mơ cũng muốn giết giặc để mang hòa bình về cho đất nước. Khi biết tin vua Trần Nhân Tông sẽ tới bến Bình Than để cùng các vương hầu họp bàn việc nước, chàng quyết định xuất phát. Một người một ngựa đi suốt một đêm với mong muốn được gặp nhà vua. Khi tới nơi, chàng thấy đám quân Thánh Dực đang canh gác ngoài bến tàu, chàng mơi to gan mà chạy đến, xô ngã mấy người lính, liều mình chạy lại quỳ xuống trước mặt nhà vua mà nói 2 tiếng: “Xin đánh”. Tuy vua rất vừa ý, nhưng vì tuổi còn nhỏ nên chàng chỉ được vua ban cho cam quý, còn về việc nước thì vẫn không được vua cho dự. Trong lòng Trần Quốc Toản cảm thấy rất ấm ức, thất vọng, vừa hờn vừa tủi, nhưng lệnh vua đã ban, chàng nào dám cãi, vậy nên chỉ đành trở ra. Chàng vừa đi vừa nghiến chặt răng, quả cam trong tay đã bị bóp nát từ bao giờ. Kể từ ngày ấy, Nguyễn Quốc Toản luôn nung nấu ý chí “Làm thế nào để được ra trận giết giặc, lập công, báo được ơn vua”. Chàng quyết tâm học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ với tinh thần sục sôi tràn đầy nhiệt huyết. Không lâu sau, chỉ với lá cờ mang sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân” được đích thân mẹ chàng tự tay thêu đã chiêu mộ rất nhiều tráng sĩ gần xa. Họ cùng nhau tập hợp để rèn luyện binh thư, võ nghệ, họ sống với nhau như những người anh em ruột thịt. Khiến cho ai nấy đều cảm phục trước sự tài trí của những người thiếu niên anh hùng. Và rồi, khi nghe tin quân giặc kéo đến nước nhà, không chần chừ gì, Trần Quốc Toản và quân sĩ đã cùng nhau anh dũng lên đường đánh giặc. Khi ấy chàng đã gặp và kết nghĩa anh em Nguyễn Thế Lộc- người anh hùng rừng núi. Không bao lâu sau, hai anh em đã phải chia tay nhau để Quốc Toản trở về Vạn Kiếp, đây là một trong những cảnh khiến người đọc cảm động nhất về tình cảm thân thiết gắn bó nghĩa tình của hai người hùng đều mang trong mình khí thế sục sôi giết giặc bảo vệ nước nhà. Trần Quốc Toản đã được cử cùng Chiêu Văn Vương và Trần Nhật Duật đi đánh chặn Toa Đô. Trên cửa Hàm Tử, một cuộc chiến ác liệt, cam go đã nổ ra. Trần Quốc Toản anh dũng mà hiên ngang xông thẳng về phía các thuyền chiến của giặc. Tất cả quân sĩ đồng thanh hô vang “Sát thát”, ai nấy ráo riết, đánh đuổi đám tàn quân hỗn loạn ấy. Toa Đô liều chết nhảy xuống nước bơi vào bờ, tưởng đâu sẽ thoát nhưng đã bị tướng quân Nguyễn Khoái bắn tên đâm trúng lưng. Giờ đây quân Nguyên như “rắn mất đầu”, rối rít buông bỏ vũ khí đầu hàng. Tin vui về tới, nhân dân bản làng ai nấy đều reo rò ăn mừng chiến thắng. Đặc biệt mẹ của Trần Quốc Toản cũng có mặt trong giây phút đó. Ngước mắt lên nhìn, bà nghẹn ngào xúc động khi thấy lá cờ thêu sáu chữ đỏ chói đang phấp phới bay. Sau khi thưởng thức tác phẩm, nhà phê bình văn học Thiều Quang đã bộc bạch rằng: “Đọc mê mải cuốn truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng, tôi có cảm khoái say sưa như lâu ngày được hưởng một “món ăn lạ miệng”. Thật vậy, cuốn sách ấy đã để lại cho độc giả rất nhiều những khung bậc cảm xúc khác nhau. Đó vừa là sự khâm phục, ngưỡng mộ người anh hùng Trần Quốc Toản với lòng yêu nước tha thiết, ý chí kiên cường chống giặc ngoại xâm. Vừa là sự cảm động trước sự đồng tâm hiệp lực, đoàn kết một lòng cùng nhau chiến đấu anh dũng quân dân nhà Trần . Một lòng căm hận, quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược Mông Nguyên mang hòa bình về cho nước nhà. Bài tham khảo Mẫu 2 Lá cờ thêu sáu chữ vàng là một tác phẩm lịch sử của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, kể về cuộc đời của Trần Quốc Toản, một vị tướng tài ba của nhà Trần. Tác phẩm là kết quả của biết bao chiêm nghiệm về đời Trần, một thời đại mà Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt sùng kính, được lấy cảm hứng từ sự kiện lịch sử diễn ra ở thời nhà Trần với cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược lần thứ hai (1285). Tác phẩm “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” đã tái hiện lại hình ảnh người thiếu niên anh hùng (Hoài Văn Hầu, tức Trần Quốc Toản), tuy tuổi đời còn trẻ nhưng lại có tinh thần yêu nước to lớn và lòng căm thù giặc sâu sắc, sau này sẽ trở thành danh tướng đời nhà Trần. Từ nhỏ, ông sống trong một gia đình có truyền thống yêu nước nên Hoài Văn đã mang trong mình một tình yêu nước to lớn. Qua tác phẩm, ta có thể thấy rõ tinh thần yêu nước đã được nuôi dưỡng trong tâm hồn của Hoài Văn từ rất nhỏ “Cháu còn ít tuổi thật. Nhưng ví bằng quân Nguyên sang cướp nước ta, thì cháu cũng xin theo các chú, các bác đi đánh giặc”. Chính vì lòng yêu nước nồng nàn đó, chàng đã không màng đến tất cả ngay cả mạng sống của mình, kiên quyết xông vào để gặp vua “Xin quan gia cho đánh! Cho giặc mượn đường là mất nước”. Tuy còn nhỏ nhưng Hoài Văn đã biết suy nghĩ cho nước nhà, mong muốn được góp sức mình bảo vệ nước “Cháu biết là mang tội lớn. Nhưng cháu trộm nghĩ rằng khi quốc biến thì đến đứa trẻ cũng phải lo huống hồ cháu đã lớn. Cháu chưa đến tuổi dự bàn việc nước, nhưng cháu có phải là giống cỏ cây đâu mà ngồi yên được” nhưng mong muốn đó không được chấp nhận. Chàng đã tức giận, không thể ngồi yên nhìn đất nước lâm nguy chàng đã chợt nghĩ sẽ chiêu binh, mãi mã mà cầm quân đi đánh giặc “Được rồi! Ta sẽ chiêu binh mãi mã, cầm quân đi đánh giặc. Xem cái thằng phải đứng ngoài rìa này có phải là kẻ toi cơm không”. Chính từ tình yêu nước mãnh liệt đó đã gợi lên bên trong Hoài Văn sức mạnh và ý chí đánh giặc. Ý chí quyết tâm đạt đến đỉnh điểm được thể hiện qua chi tiết Hoài Văn suy nghĩ dựng lên lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng "PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN" làm cho quân sĩ phấn khởi, kẻ địch kinh hồn: “Suốt từ chập tối đến canh hai, Hoài Văn tự hỏi “Ta sẽ viết chữ gì trên lá cờ của ta? Chữ đề phải quang minh chính đại như ban ngày. Chữ đề phải là một lời thề quyết liệt. Chữ đề phải làm cho quân sĩ phấn khởi, cho kẻ địch kinh hồn”. Trống đã điểm canh ba. Mắt Hoài Văn bỗng rực sáng, toàn thân như bừng bừng cháy. Tay Hoài Văn giơ lên như đang phất một lá cờ. Hoài Văn thét lớn: PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN”. Dòng chữ dù ngắn gọn nhưng lại ẩn chứa sâu bên trong một lời thề son sắt, một tinh thần trung quân ái quốc sâu đậm. Vì quá yêu nước nên Hoài Văn luôn muốn mau chóng đánh tan bọn giặc để bảo vệ đất nước, để có thể góp phần sớm mang lại cuộc sống an bình cho nhân dân: “Phải tập cho nhanh. Giặc sang đến nơi rồi. Ta sẽ học tập cả ngày lẫn đêm. Chí ta đã quyết. Dù cho khó nhọc đến đâu, ta cũng chẳng sờn lòng”. Không những thế, chàng còn ngày đêm kêu gọi, đi từng thôn xóm vận động bà con cùng đứng lên chống giặc. Khi ra chiến trường, Hoài Văn mạnh mẽ, quyết đoán lao vào đánh giặc để bảo vệ nước nhà, để nhân dân sống một cuộc sống yên bình, chàng không hề chùn bước trước khí thế của bọn giặc, bởi lẽ một lòng yêu nước đầy to lớn đã vượt lên tất cả làm cho Hoài Văn thêm can đảm đánh bại kẻ thù. Qua tác phẩm, hình ảnh một anh hùng trẻ tuổi với lòng yêu nước đầy bất diệt, đầy kiên cường mạnh mẽ, quyết tâm chống giặc để bảo vệ đất nước. Lòng yêu nước ngày càng được dâng cao, giặc càng mạnh, càng bạo thì lòng yêu nước càng lớn. Bài tham khảo Mẫu 3 Lá cờ thêu sáu chữ vàng, một tác phẩm lịch sử đầy ý nghĩa, đã được sáng tạo với sự tưởng tượng phong phú và độc đáo của nhà văn. Trong tác phẩm này, một hình tượng người anh hùng đáng kính, Trần Quốc Toản, đã được khắc họa một cách nổi bật. Câu chuyện bắt đầu với "một giấc mơ thú vị" của cậu thanh niên Trần Quốc Toản. Trong giấc mơ đó, cậu thấy mình đã bắt sống tên sứ thần hống hách Sài Thung, người đại diện cho nhà Nguyên. Giấc mơ này như là một dấu hiệu cho thấy Trần Quốc Toản là một người có ý chí phi thường, dù tuổi còn nhỏ, nhưng đã nhận thức được sứ mệnh cao cả của mình. Khi nghe nói rằng vua Trần Nhân Tông sẽ tới bến Bình Than để họp bàn việc quan trọng, cậu thanh niên nhỏ ấy quyết định cùng ngựa xuất phát để gặp nhà vua. Trần Nhân Tông rất ấn tượng với cậu nhóc này, nhưng do tuổi còn nhỏ nên chỉ được vua thưởng một quả cam quý, còn việc tham gia vào cuộc họp chưa được cho phép. Trần Quốc Toản cảm thấy thất vọng và ấm ức, vừa đi vừa nghiến chặt răng, không biết từ bao giờ quả cam trong tay đã bị nát bởi sức nén của cậu. Từ đó, Trần Quốc Toản quyết tâm học tập về binh thư và rèn luyện võ nghệ. Khi nghe tin quân giặc đang tiến đến, cùng với lá cờ mang sáu chữ vàng "Phá cường địch, báo hoàng ân", Quốc Toản cùng với nhiều anh hùng trận đấu dũng mãnh. Cuối cùng, tin vui về chiến thắng lan tỏa khắp bản làng, và mọi người đều hân hoan reo mừng. Mẹ của Trần Quốc Toản không kìm được nước mắt xúc động khi nhìn thấy lá cờ sáu chữ vàng mà chính tay bà đã thêu, bay phấp phới trên không trung. Tác phẩm "Lá cờ thêu sáu chữ vàng" chứa đựng những thông điệp vô cùng ý nghĩa về tình yêu nước, lòng dũng cảm và sự đoàn kết của nhân dân trong cuộc chiến giành lại độc lập và tự do cho đất nước. Nó là một minh chứng sáng đáng về tinh thần quyết tâm và hy sinh cao cả của những người anh hùng, gửi gắm hy vọng và khích lệ cho thế hệ sau biết trân trọng giá trị độc lập và sự tự do. Tác phẩm này cũng nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của sự đoàn kết và tương thân tương ái trong việc xây dựng một xã hội vững mạnh và phát triển.
Quảng cáo
|