Hãy nêu lên cảm nghĩ về nhân vật Xi-môngVới hàng chục tiểu thuyết, khoảng 300 truyện ngắn, tên tuổi Mô-pa-xăng, nhà văn vĩ đại Pháp cuối thế kỷ XIX trở thành bất tử Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 8 tất cả các môn - Chân trời sáng tạo Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên Quảng cáo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý 1. Mở bài – Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Bố của Xi -Mông” là một tác phẩm hay của nhà văn tên tuổi Mô- Pa- Xăng người Pháp. Ông là một nhà văn, nhà tiểu thuyết vĩ đại, cuộc đời ông gắn liền với những thân phận con người khốn khó. Trong văn ông luôn chứa đựng giá trị nhân văn cao cả, tình yêu thương với con người trong cộng đồng. – Tác phẩm “Bố của Xi-Mông” kể về một đứa trẻ không có cha, những nỗi buồn nỗi tủi nhục của đứa trẻ khi bị bạn bè trêu chọc, và rồi một ngày em đã tìm được một người cha cho mình. Niềm vui của em cũng chính là niềm vui của tác giả. 2. Thân bài – Khái quát qua nội dung truyện: Câu chuyện xoay quanh nhân vật Xi-Mông một em bé được sinh ra ngoài giá thú, bởi một người mẹ đơn thân là chị Blăng. – Là rõ sự cô đơn trong tâm hồn cuộc đời hai mẹ con vô cùng đơn độc. Hai mẹ con chị sống trong một ngôi nhà nhỏ sạch sẽ. Người mẹ đã làm việc rất vất vả để nuôi con trưởng thành, trong sự chỉ trích của người đời. – Tuổi thơ của Xi- Mông lớn lên chỉ có mẹ, em không được nhận tình thương của một người cha. Và em cũng không biết cha mình là ai. Bạn bè, hàng xóm xung quanh nhà em thì chỉ coi em là một đứa trẻ “con hoang” nên họ ghẻ lạnh với em. – Hoàn cảnh nảy sinh cao trào dẫn tới việc Xi-Mông tìm được một người cha? Xi-Mông thường xuyên bị bạn bè học cùng trường trêu chọc, những đứa trẻ xấu tính, và không hề biết chia sẻ, chúng thường xuyên bắt nạt em, hành hạ em, khiến cho cuộc đời Xi-Mông càng trở nên bi đát, tâm hồn thì vỡ nát. Xi-Mông trong một phút bồng bột đã quyết định tìm tới cái chết. – Miêu tả người cha của Xi-Mông sự tương phản giữa ngoại hình bên ngoài và tâm hồn bên trong. Người cha của Xi-Mông đó chính là một người đàn ông làm nghề thợ rèn, với vóc dáng cao lớn có nhiều râu và tóc trông có vẻ hơi xù xì gai góc về tướng mạo bên ngoài, nhưng lại có một tâm hồn vô cùng lương thiện. – Tác giả Mô-Pa-Xăng đã rất khéo léo khi sử dụng nghệ thuật tương phản, miêu tả anh chàng thợ rèn xù xì, gai góc, về tướng mạo nhưng lại rất nhân hậu – Tính cách ngây thơ của Xi-Mông được khắc họa chi tiết khi em cất tiếng vui vẻ hỏi chú thợ rèn rằng “Chú có muốn làm bố cháu không?”. Chú thợ rèn vui vẻ bế bổng Xi-Mông cao lên trời kèm theo một cái thơm vào đôi má ngây thơ của em chú thợ rèn đáp “Có chứ, chú có muốn”. – Xi-Mông là một cậu bé ngây thơ, đáng yêu ước nguyện có một người cha của em là một ước nguyện hoàn toàn chính đáng “Có cha có mẹ vẫn hơn, không cha không mẹ như đàn đứt dây” đàn dứt dây rồi làm sao mà còn tạo ra những nốt nhạc du dương cho cuộc đời được nữa. 3. Kết bài Đọc xong tác phẩm “Bố của Xi-Mông” người đọc bị ám ảnh bởi những tình tiết đầy xúc động, giàu tính nhân văn mà nhà văn Mô- Pa-Xăng đã khắc họa cho các nhân vật của mình. Tuy nhiên, đâu đó trên trái đất vẫn có những em bé không được hưởng trọn vẹn tình yêu đó nhưng bằng tác phẩm của mình Mô-Pa-Xăng hy vọng sẽ phần nào an ủi được tâm hồn của các em. Bài siêu ngắn Trong chúng ta, ai cũng mong có một cuộc sống gia đình hạnh phúc, có đủ cha mẹ và sống trong bầu không khí yêu thương. Nhưng không phải ai cũng có được sự may mắn đó. Cậu bé Xi-mông trong tác phẩm Bố của Xi-mông luôn khao khát yêu thương và ước mong về một cuộc sống gia đình đầy đủ cha mẹ. Em phải chịu cảnh bất hạnh khi sống thiếu hụt tình cảm của người bố. Vì vậy, em đã nhận sự châm chọc, chê cười từ các bạn, đó như những mũi dao vô tình khứa vào trái tim thơ dại, bé bỏng. Em không thể sống trong tủi nhục vì "không có bố” nên tìm ra bờ sông với ý định tự tử, để xoa dịu nỗi đau trong lòng. Thật đáng thương cho một tâm hồn thơ dại, em cũng khát khao một hạnh phúc bình thường như bao đứa trẻ khác. Em khóc nức nở như giải tỏa bao nỗi ấm ức trong lòng. Và rồi, bác Phi-lip xuất hiện như chiếc phao cầu cứu, như cơn mưa tưới mát tâm hồn em. Em mong mỏi được gọi một tiếng bố và bác Phi-lip đã nhận lời. Đó như một cái kết có hậu, khao khát nhỏ nhoi trong em đã thành hiện thực khi được gọi đầy đủ hai tiếng mẹ cha. Truyện gửi gắm một thông điệp đến chúng ta: Hãy đối xử yêu thương, cảm thông, đừng cười cợt trên nỗi bất hạnh của người khác. Đó là tiếng lòng cảm thông cảm tác giả với những em bé bất hạnh, thiếu thốn tình thương như cậu bé Xi-mông. Bài mẫu 1 Với hàng chục tiểu thuyết, khoảng 300 truyện ngắn, tên tuổi Mô-pa-xăng, nhà văn vĩ đại Pháp cuối thế kỷ XIX trở thành bất tử. Cuộc đời nhà văn là những trang buồn. Có lẽ vì thế nên ông mới viết về thân phận con người với nhiều cảm thương thân thiết thế? Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em là “một cô gái đẹp nhất vùng” đã bị lầm lỡ tình yêu. Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn bà này tên là Blăng-sốt “cao lớn, xanh xao” phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời. Trường học cũng không phải là cái nôi hạnh phúc của em. Tám tuổi, em mới được đến trường. Lớp học là nơi hội tụ của những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị lũ trẻ hạ lưu dùng những lời "ác độc" nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt nhất đẩy dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ "quỷ quái" hành hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế kỷ này không khỏi buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Bị bọn trẻ "xua đuổi", bị đánh tơi tả, bé Xi-mông đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em phải chết. Em không thể sống trong tủi nhục vì “không có bố". Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau khổ và cô đơn của em? Một đứa bé 8 tuổi cảm thấy không thể sống trong nỗi đau khổ, nỗi nhục, phải nhảy xuống sông tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến cực điểm. Tình tiết này rất cảm động và điển hình cho nỗi đau khổ cô đơn của những em bé trên cõi đời vì một lí do nào đó mà “không có bố". Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu tả đầy chất thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước lấp lánh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dill nỗi đau khổ cô đơn của em. Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng ấm. Con nhái màu xanh “giương tròn con mắt có vành vàng" hình như đã níu giữ chân em trước tử thần? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc thiên nhiên. Nhưng nỗi đau về thân phận quá lớn. Đây là hình ảnh Xi-mông: “Người em rung lên, em quỳ xuống và em đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ”. Em khóc nức nở. Em “chỉ khóc mà thôi". Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em đi dần đến tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm lý bé Xi-mông với tất cả tình thương xót. Ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù thiên nhiên có đẹp đến đâu, ngoại cảnh có đẹp đến đâu con người vẫn bất hạnh, khó sống nổi trong cảnh ngộ cô đơn và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé “không có bố". Một tình huống bất ngờ đã xảy đến. Chú thợ rèn “‘cao lớn, râu tóc đen quăn, nhân hậu" đã đến với Xi-mông. Chú đã “lau khô" đôi mắt đẫm lệ của em. Chú đã an ủi cm với tình thương của một con người “có phép lạ”: “Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu một ông bố". Một câu nói giản dị sẽ xoa dịu buồn cô đơn cho bé Xi-mông, và cả cho mẹ em-chị Blăng-sốt. “Bố tao ấy, bố tao là Phi-líp". Em đã có bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ! “Không có bố thì đau khổ!”, "Có bố thì hạnh phúc!". Như một chân lý giản dị, giàu nhân bản. Bé Xi-mông thật đáng thương và đáng yêu! Bài mẫu 2 “Bố của Xi-mông” là một trong những tác phẩm nổi bật của nhà văn người Pháp Mô-pa-xăng. Tác phẩm xoay quanh Xi-mông một đứa trẻ tội nghiệp không cha, em phải hứng chịu biết bao xấu hổ tủi nhục vì điều ấy và cuối cùng em cũng đã tìm được cho mình một người cha. Tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả, giàu lòng yêu thương con người. Xi-mông là con của chị Blăng-sốt, chị bị một người đàn ông lừa dối nên đã sinh ra Xi-mông, em trở thành đứa trẻ không cha trong mắt mọi người, em sống thiếu thốn tình thương, chỉ có sự chăm sóc của mẹ. Nhưng hoàn cảnh đáng thương của em lại không được thông cảm, người lớn coi là đứa con hoang, ngoài giá thú; còn lũ trẻ không hiểu biết nói những lời ác ý, chúng không chia sẻ mà thường xuyên bắt nạt, hành hạ em, khiến Xi-mông cảm thấy chán nản, nhiều lần khóc lóc và muốn tìm đến cái chết. Điều đó làm cậu bé hết sức khổ tâm, và cao trào của sự việc là Xi-mông muốn tìm đến cái chết nếu em không tìm được người cha của mình. Xi-mông là đứa trẻ hết sức đáng thương, cần được sự quan tâm, chia sẻ từ những người xung quanh. Trên bời sông, Xi-mông đau khổ đến tột cùng, tuyệt vọng và định tìm đến cái chết để giải thoát chính mình. Trước khung cảnh đẹp đẽ “trời ấm áp vô cùng, dễ chịu vô cùng. Ánh mặt trời êm đềm sưởi ấm bãi cỏ…” đã làm em quên đi những đau khổ mà mình phải chịu đựng. Rồi em chợt nhớ về mẹ, em lại khóc nức nở. Tác giả đã miểu tả hết sức khéo léo, tài tình tâm trạng trẻ thơ. Chúng có thể vì khung cảnh rực rỡ, nhưng thú vui nhất thời mà quên đi nỗi đau của mình, nhưng ẩn sâu bên trong nỗi đau ấy vẫn gặm nhấm và bùng phát bất cứ lúc nào. Qua đó ta thấy được tâm trạng đau khổ, tình cảnh đáng thương của cậu bé Xi-mông. Khi gặp được bác Phi-lip ở bờ sông, nhận được sự hỏi han, quan tâm Xi-mông lại khóc nấc lên: “Chúng nó đánh cháu … vì… cháu … cháu … không có bố … không có bố”, cách miêu tả thật tinh tế với những dấu chấm lửng ngắt quãng đã cho thấy tâm trạng nghẹn ngào, đau đớn, tủi hổ của cậu bé Xi-mông. Xi-mông trở về nhà, một lần nữa nỗi uất ức ấy lại trào dâng, em òa khóc và nhắc lại ý định tự tử. Nhưng trong em vẫn còn là một đứa trẻ hồn nhiên. Sự hồn nhiên đó được thể hiện qua câu nói rất ngây thơ, hồn nhiên: “Bác có muốn làm bố cháu không?” câu hỏi cất lên làm cả mẹ của Xi-mông và bác Phi-lip đều cảm thấy ngượng ngùng, đặc biệt chị Blăng-sốt như chết lặng đi, “hổ thẹn, lặng ngắt và quằn quại, dựa vào tường, hai tay ôm ngực”. Chỉ có = Xi-mông là vui vẻ, hào hứng và tràn ngập mong muốn có một người bố cho riêng mình. Đối với bác Phi-lip đó chỉ như một câu chuyện đùa, bác vui vẻ bế bổng Xi-mông lên và khẳng định: “Có chứ, bác muốn chứ”. Cậu bé hoàn toàn tin tưởng vào những lời bác Phi-lip nói và cũng từ sau giây phút ấy em can đảm, tự tin lên rất nhiều. Xi-mông hạnh phúc, hãnh diện khi đã có bố, bởi vậy hôm sau khi đến trường bị các bạn tiếp tục trêu chọc cậu bé đã dũng cảm quát vào mặt chúng: “Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-lip”, em vô cung hãnh diện, tự hào trước những kẻ luôn đi hành hạ, sỉ nhục em. Trước những lời bỡn cợt, em không nói gì nữa mà chỉ im lặng, bởi em tin lời hứa bác Phi-lip đã nói với mình. Có bố đã mang lại cho em niềm vui, sức mạnh để sống hạnh phúc và học tập tốt. Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí trẻ em tài tình, ngôn ngữ đa dạng phù hợp với lửa tuổi nhà văn Mô-pa-xưng đã thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả. Tác phẩm là bài ca ca ngợi tình yêu thương giữa con người với con người. Đồng thời cũng là tiếng nói cảm thông cho những số phận bất hạnh, cho những nỗi đau và lầm lỡ của người khác. Bài mẫu 3 Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết: Thêm một người trái đất sẽ chật hơn Nhưng thiếu mẹ thế giới đầy nước mắt" Vượt qua khuôn khổ chật hẹp của câu chữ, câu thơ trên đề cao vai trò, ý nghĩa lớn lao của bậc sinh thành đối với con cái. Thật hạnh phúc biết bao với những ai sinh ra và lớn lên luôn có cha, có mẹ bên cạnh. Nhưng cũng thật bất hạnh biết bao khi ai đó sinh ra trên đời đã thiếu vắng tình cảm của mẹ cha. Nhà văn Guy đơ Mô – pa – xăng lên mười tuổi đã phải chịu cảnh cha mẹ ly thân, lớn lên trong sự thiếu vắng tình cảm của người cha đã thấu hiểu tất cả nỗi đau bất hạnh ấy. Vì thế, bằng trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ, Mô – pa – băng đã truyền tải nỗi đau đó qua câu chuyện "Bố của Xi – mông". Khép lại câu chuyện, hình ảnh cậu bé Xi – mông cứ hiện lên trong tâm trí, gây ám ảnh, day dứt trong lòng người đọc về tình yêu thương, sự đồng cảm, sẻ chia đối với cậu bé bất hạnh qua câu nói: "con không có bố"!. Câu chuyện xoay quanh tình cảnh đáng thương của cậu bé Xi – mông, sinh ra đã không biết mặt mũi cha mình là ai và luôn sống trong sự ghẻ lạnh, dè bỉu của mọi người xung quanh. Mẹ của cậu bé là Blăng – sốt. Trước đây chị là một cô gái đẹp nhất vùng, chỉ vì gặp phải sự dối lừa của một người đàn ông bội bạc mà chị đã để vụt mất tuổi thanh xuân và sinh ra Xi – mông. Hai mẹ con sống nương tựa vào nhau trong "một ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ". Tuổi thơ của Xi – mông thấm đẫm nước mắt tủi hờn. Mặc dù, cậu được mẹ chăm sóc, yêu thương rất tận tình, chu đáo nhưng cũng không thể bù đắp hết được sự trống trải, cô đơn và nỗi đau khổ của một cậu bé thiếu vắng tình cảm của người cha. Vì thế, cậu tha thiết và nguyện cầu có một người cha bên cạnh. Nhưng với em, điều đó thật khó khăn và không tưởng. Do phải sống trong nghèo đói, Xi mông lên tám tuổi mới được cắp sách tới trường. Ngỡ tưởng rằng, đến trường, em sẽ được hòa mình với chúng bạn trên trang sách tuổi thơ nhưng không, ngay ngày đầu tiên đi học, Xi – mông đã bị bạn bè đem ra trêu chọc nhục mạ và thậm chí là bị đánh đập chỉ vì em sinh ra đã là đứa trẻ không cha. Với ngoại hình xanh xao, tính cách nhút nhát," gần như vụng dại", cậu bé không biết và cũng không thể phản kháng lại được trước những đứa trẻ hư, nghịch gợm và thiếu tình yêu thương, sự đồng cảm đó. Xi – mông chỉ biết khóc, khóc và khóc. Chi tiết giọt nước mắt thể hiện nỗi đau đớn, tủi hờn của Xi – mông đã được nhà văn miêu tả rất nhiều lần: "cảm giác uể oải thường thấy sau khi khóc", "và thấy buồn vô cùng, em lại khóc. Người em rung lên", "những cơn nức nở lại kéo đến", em "chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa và em chỉ khóc hoài", "em trả lời, mắt đẫm lệ, giọng ngẹn ngào, "ôm lấy cổ mẹ, lại òa khóc"... Việc tô đậm tiếng khóc của nhân vật, một mặt vừa diễn tả được tấn bi kịch tinh thần của cậu bé khi không có cha; mặt khác cho thấy được tấm lòng đồng cảm, xót thương nhân vật của nhà văn Mô – pa – băng. Suy nghĩ tiêu cực, cậu đã không thể vượt thoát ra khỏi những định kiến và cái nhìn khinh ghét của mọi người, Xi – mông đã bỏ ra bờ sông, định tự tử để giải thoát nỗi đau đớn này. Nhưng nhờ vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên, nỗi đau khổ trong em đã vơi bớt đi phần nào. Và rồi, dường như vẻ đẹp của thiên nhiên cũng không thể nào xóa hết trong lòng em những day dứt, đau đớn bấy lâu nay ở trong lòng. Em lại nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ, và thấy buồn vô cùng, em lại khóc. Hiện thực đắng chát ở trong lòng cứ xoáy sâu vào trong em, nỗi tuyệt vọng ngày một lớn dần đều. "Em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện....nhưng em không đọc hết được, vì những cơn nức nở lại kéo đến, dồn dập, xốn xang choán lấy em". Cuối cùng, dường như chúa trời đã thấu hiểu lời nguyện ước của em, một tình huống bất ngờ xảy đến, Xi – mông đã gặp cha. Đó là chú thợ rèn Phi - líp "cao lớn, râu tóc đen quăn... nhân hậu" đã lau khô nước mắt của cuộc đời em. Chú Phi – líp như một ông tiên có phép lạ, chỉ một câu nói giản đơn: "Thôi nào, đừng buồn nữa, về nhà mẹ cháu với bác đi. Người ta sẽ cho cháu... một ông bố" đã xoa dịu nỗi đau buồn cô đơn trong lòng Xi – mông. Và rồi, hai bác cháu lên đường trở về nhà. Cuối đoạn trích, nhà văn đã khắc họa cảnh tượng Xi – mông nhận bác Phi – líp làm cha thật xúc động lòng người. Lời hỏi ngây thơ mà em hỏi bác thợ rèn: "Bác có muốn làm bố cháu không?" đã thể hiện niềm mong mỏi cháy bỏng đến không cùng của một cậu bé mồ côi cha. Và sau khi được bác thợ rèn nhấc bổng lên rồi hôn vào hai má và nói "Có chứ, bác có muốn" thì tâm hồn trong trẻo, non nớt của em đã hồi sinh trở lại. "Xi – mông im lặng một giây, để ghi nhớ cái tên ấy trong óc, rồi hết cả buồn, em vươn hai cánh tay nói: - Thế nhé! Bác Phi – líp, bác là bố cháu". Để rồi, ngày hôm sau tới trường, Xi – mông đã thật hãnh diện và hạnh phúc biết bao "như ném một hòn đá", quát vào mặt lũ bạn "Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi – lip". Sau này, Phi – líp đã làm bố thật sự của Xi – mông. Lòng nhân hậu của bác đã hóa giải nỗi đau, nỗi bất hạnh của chị Blăng – sốt, bé Xi – mông và mang lại hạnh phúc cho cả chính mình. "Bố của Xi – mông là câu chuyện về một mảnh đời đặc biệt của trẻ thơ, mảnh đời ấy nhắc nhở mọi người về quyền của trẻ em được sống trong tổ ấm gia đình. Nó còn cho thấy khát vọng trong sáng của tuổi thơ có thể đánh thức dậy ở người khác tình yêu thương, lòng nhân hậu và thái độ không định kiến với những người ở xung quanh mình" Bài mẫu 4 Truyện ngắn “Bố của Xi-mông” kể về nỗi tủi nhục của một em bé “không có bố” với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo. Bé Xi-mông và mẹ em – chị Blang-sốt thật đáng thương; cuộc đời hai mẹ con để lại trọng lòng độc giả nhiều thương cảm. Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em là “một cô gái đẹp nhất vùng” đã bị lầm lỡ tình yêu… Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn bà này tên là Blăng-sốt “cao lớn, xanh xao” phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời. Tuổi thơ của Xi-mông là những chuỗi ngày cô đơn trong ngôi nhà nhỏ, lạnh lẽo. Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố. Trường học cũng không phải là cái nôi hạnh phúc của em. Tám tuổi, em mới được đến trường. Lớp học là nơi hội tụ của những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị lũ trẻ dùng những lời “ác độc” nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt nhất đã dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ “‘quỷ quái” hành hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế kỷ nay không khỏi buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau đớn tả thể xác lẫn tâm hồn. Bị bọn trẻ xua đuổi, bị đánh tơi tả, bé Xi-mông đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em không thể sống trong tủi nhục vì “không có bố”. Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau khổ và cô đơn của em? Một đứa bé 8 tuổi cảm thấy không thể sống trong nỗi đau khổ, nỗi nhục, phải nhảy xuống sông tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến cực điểm. Tình tiết này rất cảm động và điển hình cho nỗi gian khổ cô đơn của những em bé trên cõi đời vì một lí do nào đó mà “không có bố”. Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu ta đầy chất thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước lấp lánh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dịu nỗi đau khổ cô đơn của em. Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng ấm. Con nhái màu xanh “dương tròn con mắt có vành vàng” hình như đã níu giữ chân em trước tử thần? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc thiên nhiên. Nhưng nỗi đau về thân phận quá lớn. Đây là hình ảnh Xi-mông: “Người em rung lên, em quỳ xuống em đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ”. Em khóc nức nở. Em “chi khóc mà thôi”. Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em đi dần đến tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm lí bé Xi-mông với tất cả tình thương xót. Ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù thiên nhiên có đẹp đến đâu, ngoại cảnh có đẹp đến đâu con người vẫn bất hạnh, khó sống nổi trong cảnh ngộ cô đơn và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé “không có bố”. Một tình huống bất ngờ đã xảy đến. Chú thợ rèn “cao lớn, rau tóc đen quăn… nhân hậu” đã đến với Xi-mông. Chú đã “lau khô” đôi mắt đẫm lệ của em. Chú đã an ủi em với tình thương của một con người “có phép lạ”: Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố”. Một câu nói giản dị sẽ xoa dịu nỗi cô đơn cho bé Xi-mông, và cả cho mẹ em là Blăng-sôì. Cảnh bé Xi-mông bất ngờ gặp chú thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động. Em bé thơ ngây được sống, và người ta sẽ cho em “một ông bố”. Đọan đối thoại giữa chú thợ rèn và bé Xi-mông thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Nước mắt khô dần trên má em; em đã được chú thợ rèn dắt tay trả về với mẹ. Tính cách bé Xi-mông được khắc họạ đậm nét khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú thợ rèn: “Chú có muốn làm bố cháu không?”. Khi được chú thợ rèn nhấc bổng lên, hôn vào má em và nói: “Có chứ, chú có muốn” thì tâm hồn em “hoàn toàn khuây khỏa” và em đã khắc cái lên Phi-lip vào lòng, với niềm tự hào “có bố”. Câu nói của Xi-mông như một lời nguyền hẹn ước: “Chú Phi-líp, chú là bố cháu đấy nhé!”. Có bố đó là niềm hạnh phúc của mỗi em bé trên cõi đời. Có bố là có nơi nương tựa. “Con có cha như nhà có nóc” (Tục ngữ). Có bố tức là có quyền làm người. Có bố, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông đã hãnh diện tuyên bố với lũ bạn “như ném một hòn đá”: “Bố tao ấy, bố tao là Phi-lip”. Em đã có bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ! Đọc truyện “Bố của Xi-mông”, ai mà không xúc động? Mô-pa-xăng đã từng nếm bao cay đắng về thân phận mồ côi từ độ lên mười, nên ông đã dành cho bé Xi- mông và chị Blăng-sốt bao cảm thông về tình thương san sẻ. Tình cảm nhân đạo dào dạt trang văn của ông. Cái hay của đoạn văn là ở bút pháp tinh tế lấy cảnh để tả tình, là ở nghệ thuật đối thoại, là ở tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông ở bờ sông, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt. “Không có bố thì đau khổ!”, “Có bố thì hạnh phúc”. Như một chân lý giản dị, giàu nhân bản. Bé Xi-mông thật đáng thương và đáng yêu !
Quảng cáo
|