Giải bài Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trang 41 sách bài tập văn 11 - Cánh diềuCăn cứ vào phần tóm tắt và đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, hãy cho biết có những mâu thuẫn nào trong tác phẩm? Mâu thuẫn nào là mâu thuẫn chính trong đoạn trích? Quảng cáo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Câu 1 Câu 1 (trang 41, SBT Ngữ văn 11, tập hai): Căn cứ vào phần tóm tắt và đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, hãy cho biết có những mâu thuẫn nào trong tác phẩm? Mâu thuẫn nào là mâu thuẫn chính trong đoạn trích? Phương pháp giải: Đọc đoạn trích để xác định được chính xác các mâu thuẫn xuất hiện trong tác phẩm và chỉ ra được mâu thuẫn chính dựa vào những tình huống kịch cũng như tuyến nhân vật. Lời giải chi tiết: Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng là một tác phẩm phức tạp, trước tiên, vì nó hàm ẩn trong mình rất nhiều những mâu thuẫn. Ở đây có mâu thuẫn giữa tài năng, khát vọng của Vũ Như Tô với toàn bộ tồn tại xã hội (không cho phép tài năng và khát vọng đó được nảy nở, được thực hiện) Bên cạnh đó, dù hợp tác với nhau, dù có mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô và Lê Tương Dực. Vũ Như Tô muốn xây dựng Cửu Trùng Đài để tỏ tài năng, để tôn vinh vị thế của dân tộc. Điều này hoàn toàn trái ngược với mục tiêu hưởng lạc của Lê Tương Dực. Cũng cần kể đến mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô với những người thợ và rộng hơn là với nhân dân: tuy yêu quý trân trọng những người thợ nhưng vì để thi công Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô phải trở nên lạnh lùng, phải cho chém những người bỏ trốn. Việc xây dựng Cửu Trùng Đài tốn kém cũng làm tăng gánh nặng sưu thuế cho nhân dân,khiến họ oán hận Vũ Như Tô chẳng kém gì oán hận Lê Tương Dực. Ngoài ra, còn có sự xung đột nội bộ của giai cấp thống trị giữa một bên là Lê Tương Dực và một bên là quận công Trịnh Duy Sản. Mâu thuẫn này cũng đồng thời làm xuất hiện mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô với phe cánh khởi loạn của Trịnh Duy Sản. Vũ Như Tô bị kết án không phải chỉ bởi nhân dân mà còn bởi chính phe đối lập với Lê Tương Dực. Đoạn kết là sự kết hợp cả hai mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô với nhân dân và phe khởi loạn. Câu 2 Câu 2 (trang 41, SBT Ngữ văn 11, tập hai): Tìm những ví dụ tiêu biểu cho thấy các chỉ dẫn sân khấu của tác giả có vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ bối cảnh, hành động, tâm trạng nhân vật, xung đột trong lời thoại của nhân vật. Phương pháp giải: Đọc văn bản, chọn lọc những ví dụ mà đối với bản thân cảm thấy có vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ bối cảnh, hành động, tâm trạng nhân vật, xung đột trong lời thoại của nhân vật; từ đó chứng minh, làm sáng tỏ. Lời giải chi tiết: Ở kịch bản văn học, các chỉ dẫn sân khấu của tác giả có vai trò quan trọng đối với việc làm sáng tỏ bối cảnh, hành động, tâm trạng nhân vật, xung đột trong lời thoại của nhân vật. Nên chú ý đến vai trò của chỉ dẫn sân khấu ở những đoạn cao trào của vở kịch hoặc những đoạn khắc họa về những xung đột, những đoạn khắc họa nội tâm của nhân vật. Ví dụ trong đoạn kịch sau: “VŨ NHƯ TÔ (nhìn ra, rú lên) - Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn ! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! (có tiếng hô vui vẻ: “Cửu Trùng Đài đã cháy!”) Các chỉ dẫn sân khấu về lời của Vũ Như Tô (rú lên): khắc họa sự đau đớn cùng cực của nhân vật là hoàn toàn đối lập với tiếng hô vui vẻ của những người đốt phá Cửu Trùng Đài. Từ đó, cho thấy xung đột giữa người nghệ sĩ với đám đông khởi loạn (bởi đói khổ, bởi việc theo đuổi một công việc mà họ thấy hoàn toàn xa lạ với cuộc sống nhục nhằn của mình). Lời chỉ dẫn ở đây tạo ra những bè điệu đối nghịch, từ đó góp phần tạo ra kịch tính cho cao trào của vở kịch. Câu 3 Câu 3 (trang 41, SBT Ngữ văn 11, tập hai): Phân tích diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô trong đoạn trích. Từ đây, em hiểu gì về bi kịch của Vũ Như Tô? Phương pháp giải: Cần biết vận dụng các kĩ năng đọc văn bản kịch: tương quan giữa các nhân vật - các lời thoại - các chỉ dẫn sân khấu. Lời giải chi tiết: Có thể thấy diễn biến tâm trạng trên tiếp tục khắc sâu vẻ đẹp của tài năng và khát vọng phi thường của Vũ Như Tô: dù trong cảnh ngộ nào cũng không thay đổi, không màng sống chết nhưng cũng cho thấy bi kịch của nhân vật: sự lạc lối của Vũ Như Tô trong khát vọng sáng tạo của mình (hầu như đánh mất mọi cảm nhận về hiện thực để chỉ sống chết với Cửu Trùng Đài, chỉ tìm cách thực hiện Cửu Trùng Đài từ quyền lực). Đây cũng chính là điểm nhấn làm nên tính bi kịch của đoạn trích này. Câu 4 Câu 4 (trang 41, SBT Ngữ văn 11, tập hai): Trong lời đề tựa cho vở kịch Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng viết: “Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải?”. Suy nghĩ của em về hành động đốt phá Cửu Trùng Đài và giết Vũ Như Tô của phe khởi loạn trong tác phẩm? Phương pháp giải: Sau khi đọc và phân tích được những diễn biến kịch khi diễn ra hành động đốt phá Cửu Trùng Đài và giết Vũ Như Tô của phe khởi loạn từ đó đưa ra những cảm nhận, suy ngẫm của bản thân. Lời giải chi tiết: Vũ Như Tô thường được hiểu như là bi kịch của người nghệ sĩ tài năng nhưng trên thực tế đây còn là bi kịch tập thể - bi kịch của những người đốt phá Cửu Trùng Đài và giết Vũ Như Tô. Nếu như Vũ Như Tô hoàn toàn mù lòa, không nhận thức được hậu quả trong việc xây đài của mình với nhân dân thì những người giết ông có nhận thức đúng về tài năng giá trị trong công trình mà ông xây dựng không? Phải chăng họ chỉ nhìn thấy trong hành vi của Vũ Như Tô sự xa xỉ mà không nhìn thấy giá trị lâu dài của nó trong lịch sử? Họ nhân danh cái Thiện, cái lợi ích của hiện tại nhưng lại không thấy được ý nghĩa của cái Đẹp trong sự sống? Và như thế, nhân vật bi kịch trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng ngoài Vũ Như Tô còn có thể chính là những phe khởi loạn ấy. Thông thường người kết án được xem là người đai diện cho chân lí và công lí. Thế nhưng người kết án (phe khởi loạn) trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng lại chỉ đại diện cho chân lí và công lí của lớp người bị áp bức bóc lột, bị cái đói khổ đàn áp mà chứ không đại diện cho chân lí và công lí của nghệ thuật. Ý nghĩa của vấn đề này chỉ là hành động giải thoát, vùng dậy nhất thời của sự đàn áp, bóc lột chứ không thể là hành động mang ý nghĩa lâu dài. Đó chỉ hành động xảy ra trong nhất thời chứ không mang ý nghĩa cho nhiều đời. Câu 5 Câu 5 (trang 41, SBT Ngữ văn 11, tập hai): Phân tích vai trò của nhân vật Đan Thiềm trong vở kịch Vũ Như Tô và đoạn trích? Phương pháp giải: Theo dõi nội dung vở kịch Vũ Như Tô và đoạn trích, chú ý tới hành động, lời nói, thái độ của nhân vật Đan Thiềm để từ đó thấy được những điểm sáng, điểm nổi bật của nhân vật này. Lời giải chi tiết: Đan Thiềm là nhân vật bổ trợ nhằm tôn vinh vẻ đẹp của nhân vật trung tâm Vũ Như Tô nhưng bên cạnh đó nhân vật này cũng có những giá trị độc lập. Trong tác phẩm, chỉ có duy nhất Đan Thiềm là người không chỉ nhận thấy (điều này Lê Tương Dực cũng có được) mà còn trân trọng không chỉ tài năng khát vọng sáng tạo của Vũ Như Tô. Người phụ nữ này đã giúp Vũ Như Tô tìm thấy con đường để thực thi khát vọng và tài năng của mình khi khuyên Vũ Như Tô lợi dụng quyền lực của Lê Tương Dực xây Cửu Trùng Đài. Trong đoạn trích, Đan Thiềm là một cung nữ có chút ít nhan sắc và lòng nhân hậu, biết quý trọng nhân tài. Nàng đã dành cho Vũ Như Tô bao tình cảm đặc biệt. Câu 6 Câu 6 (trang 41, SBT Ngữ văn 11, tập hai): Theo em, có thể nói tới những chủ đề nào trong văn bản kịch Vũ Như Tô và đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài? Phương pháp giải: Cần đọc kĩ đoạn trích đồng thời phải nắm được những xung đột chính trong vở kịch (việc đọc kĩ phần tóm tắt trong SGK là rất quan trọng; xem thêm hướng dẫn cho câu hỏi 1) Lời giải chi tiết: Các chủ đề trong vở kịch được nhận biết thông qua việc phân tích mối quan hệ của nhân vật trung tâm với các nhân vật khác. Về cơ bản, có thể nhận thấy một số chủ đề sau: - Chủ đề về mối quan hệ giữa nghệ sĩ và uy quyền, giữa nghệ thuật và quyền lực (Vũ Như Tô với Lê Tương Dực) - Chủ đề về sứ mệnh của nghệ thuật: tô điểm cho đất nước hay phụng sự quyền lợi của nhân dân, phụng sự cho cường quyền hay nhân dân. - Chủ đề về sự cảm thông, liên tài giữa những người có tâm hồn nghệ sĩ, có khát vọng cao đẹp (Đan Thiềm và Vũ Như Tô) -Chủ đề về cái nhất thời và cái vĩnh cửu. - Chủ đề về sức mạnh của nhân dân (tích cực và tiêu cực)
Quảng cáo
|