Phân tích văn bản Tú Uyên gặp Giáng Kiều

I. Mở bài: - Dẫn dắt và giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Tác phẩm “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” của Vũ Quốc Trân.

Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 11 tất cả các môn - Chân trời sáng tạo

Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh

Quảng cáo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

- Dẫn dắt và giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Tác phẩm “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” của Vũ Quốc Trân.

II. Thân bài

1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:

- Tác giả Vũ Quốc Trân (chưa rõ năm sinh, năm mất):

+ Quê quán: Hải Dương

+ Sinh sống tại Hà Nội từ giữa thế kỉ XIX

- Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều”:

+ Trích trong truyện thơ Nôm “Bích Câu kì ngộ”, gồm 678 câu.

+ Nội dung chính: Nỗi nhớ của Tú Uyên sau khi gặp Giáng Kiều, cuộc gặp gỡ và cuộc sống hạnh phúc của hai người.

2. Phân tích tác phẩm:

a. Nỗi nhớ của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều:

“Mưa hoa khép cánh song hồ

Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi tạo

Mâm chung một, đũa thêm hai

Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa”

- Khung cảnh thơ mộng, Tú Uyên ngồi đọc sách và tương tư về người con gái.

- Tú Uyên bầu bạn với bức tranh, nhớ nhung Giáng Kiều triền miên sớm khuya.

- Kể cả khi ăn cơm, Tú Uyên cũng ngồi trước bức tranh và tưởng tượng người trong mộng đang đứng trước mặt nên làm thơ, mời rượu.

“Tưởng gần thôi lại nghĩ xa

Có khi hình ảnh cũng là phát phu

Êm trời vừa tiết trăng thu

Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng

Chiều thu như gợi tấm thương

Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình”

- Nỗi nhớ da diết đến “phát phu”, cảm giác như bức tranh là người thật.

- Bức tranh thiên nhiên nhuốm màu nỗi nhớ với trăng thu, ngàn sương, lá khô rụng.

- Thời gian buổi chiều càng làm nỗi nhớ thêm mãnh liệt.

- Sử dụng điển tích sông Tương để thể hiện sự nhớ nhung.

“Từ phen giáp mặt đến giờ

Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn

Ấy ai điểm phấn tô son

Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?”

- Từ thuở gặp mặt đến giờ, Tú Uyên ôm mộng tương tư cả ngày lẫn đêm đến mức “đã chồn” - mệt mỏi.

- Cặp từ đối lập “ngày” - “đêm” kết hợp với động từ ‘tưởng”, “mơ”và “ruột héo”, “gan mòn” cho thấy nỗi nhớ xâm chiếm tâm trí.

- “ai” vừa chỉ đối phương, vừa chỉ chính mình, đồng nhất bản thân với người trong tranh.

“Buồng đào nửa bước chẳng rời

Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?

Rày xin bẻ khoá cung trăng

Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!”

- Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức tách mình với thế giới bên ngoài, không rời căn buồng nửa bước.

- Xin được đổi nghìn vàng để lấy nụ cười của nàng, muốn mở khóa cung trăng để lại được chiêm ngưỡng dung mạo của nàng

Đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ da diết, tình yêu mãnh liệt của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều.

b. Cuộc gặp giữa Tú Uyên và Giáng Kiều:

“Một khi ra việc trường văn

Trở về đã thấy bát sân sẵn sàng

(...)

Trong tranh sao có bóng người vào ra?

Nhân nhân mày liễu mặt hoa”

- Tú Uyên đi học, trở về đã thấy trong nhà có cơm canh bày sẵn nên lòng nảy sinh mối nghi ngờ.

- Sáng hôm sau, Tú Uyên vờ đi ra ngoài và bất ngờ trở về, bắt gặp người con gái từ trong tranh bước ra.

“Vội vàng đánh tiếng ra chào

Bên mừng bên lệ, xiết bao là tình

(...)

Trước xin từ biệt cùng nhau

Chữ duyên này trở về sau còn dài”

- Tú Uyên thể hiện cảm xúc rối rời, hạnh phúc đến mức rơi lệ.

- Lời đối thoại của Giáng Kiều toát lên vẻ duyên dáng, hiền thục:

+ Nàng tự nhận là thân bồ liễu mỏng manh, vốn là “khách thanh tiêu” trên trời, có hiệu là Tiên Thù, tên gọi là Giáng Kiều.

+ Vì mối “tơ điều” đã gắn kết nàng và Tú Uyên.

+ Mối tình Uyên - Kiều là mối thiên duyên tiền định, được sự đồng thuận của trời đất.

+ Tấm lòng thủy chung, son sắt của Giáng Kiều.

Cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa Tú Uyên và Giáng Kiều cho thấy tình yêu của cả hai và làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất thanh cao, hiền hậu, thủy chung của Giáng Kiều.

c. Khung cảnh hạnh phúc của Tú Uyên và Giáng Kiều:

“Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài

Tường quang sáng một góc trời

(...)

Đong đưa khoe thắm đua vàng

Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha”

Giáng Kiều sử dụng phép tiên để thay đổi khung cảnh nhà Tú Uyên.

- Lều cỏ hóa thành lâu đài.

- Ánh sáng bao phủ rực rỡ.

- Kẻ vào người ra tấp nập, ai nấy cũng thanh tao, lịch lãm.

3. Tổng kết:

a. Nội dung: Đoạn trích cho thấy vẻ đẹp trong tình yêu của Tú Uyên và Giáng Kiều và ca ngợi tình yêu son sắt, thủy chung, vẻ đẹp tâm hồn của hai nhân vật. Qua đó, tác giả cho thấy hy vọng thoát khỏi thực tại xung quanh và thái độ phê phán về xã hội loạn lạc.

b. Nghệ thuật:

- Thể thơ lục bát truyền thống.

- Truyện thơ Nôm bác học giàu điển cố, điển tích.

- Ngôn ngữ, hình ảnh thơ ước lệ tượng trưng.

- Các từ láy, câu hỏi tu từ.

III. Kết bài

- Khái quát lại tác giả, tác phẩm.

Bài tham khảo Mẫu 1

Nói đến truyện thơ Nôm “Bích Câu kì ngộ”, nhiều ý kiến cho rằng tác phẩm vẫn chứa đựng sức hấp dẫn với nhân dân bao đời này bởi đây là một truyện thơ Nôm thuần Việt. Từ những địa danh đến tên người đều đậm chất Việt Nam. Trên bối cảnh của kinh thành Thăng Long xưa, tác giả đã khắc họa mối tình đẹp của Tú Uyên và Giáng Kiều. Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” kể về nỗi tương tư của chàng thư sinh và cuộc gặp mặt bất ngờ của Tú Uyên với người trong mộng.

“Bích Câu kì ngộ” có nghĩa là “Cuộc gặp gỡ kì lạ tại Bích Câu”. Cái tên “Bích Câu” trong nhan đề chính là một địa chỉ văn hóa nổi tiếng ở kinh thành Thăng Long xưa. Nơi đây thường được các vua chúa ghé thăm, tập trung nhiều văn nhân sĩ tử. Chàng thư sinh nghèo Tú Uyên cũng tới Thăng Long để học tập. Khi đi chơi hội chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên đã vô tình gặp Giáng Kiều và say đắm nàng nhưng chưa kịp ngỏ lời làm quen thì cô gái đẹp đã biến mất. Về sau, Tú Uyên gặp một ông lão bán tranh tố nữ, thấy có một bức họa giống hệt người con gái đã gặp dạo trước nên bèn mua tranh về nhà treo. Càng ngày Tú Uyên càng nhung nhớ Giáng Kiều, mải mê ngắm bức tranh:

“Mưa hoa khép cánh song hồ

Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi

Mâm chung một, đũa thêm hai

Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa”

Mở đầu đoạn trích là khung cảnh nên thơ ở “song hồ” - nơi cậu học trò nghèo Tú Uyên đọc sách và tương tư về người trong mộng. Cụm từ “Sớm khuya” cho thấy vòng thời gian tuần hoàn, liên tục. Từ khi gặp Giáng Kiều, Tú Uyên mong nhớ không lúc nào nguôi. Chàng quên hết thời gian và không gian xung quanh, chỉ ngắm nhìn bức họa cả ngày lẫn đêm. Nỗi nhớ da diết và mãnh liệt đến mức Tú Uyên cảm tưởng như người con gái trong tranh đang thực sự đứng trước mặt mình. Niềm tương tư được thể hiện ở hành động cụ thể. Cặp số từ “một” - “hai” cùng với các từ “chung”, “thêm” cho thấy thái độ trân trọng, nâng niu của Tú Uyên dành cho bức chân dung Giáng Kiều. Kể cả khi ăn, chàng cũng ngồi trước bức tranh và tưởng tượng người trong mộng đang đứng trước mặt nên làm thơ, mời rượu.

“Tưởng gần thôi lại nghĩ xa

Có khi hình ảnh cũng là phát phu

Êm trời vừa tiết trăng thu

Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng

Chiều thu như gợi tấm thương

Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình”

Cặp từ đối lập “gần” - “xa” cùng hai động từ “tưởng” và “nghĩ” thể hiện niềm thương nhớ trào dâng đến bứt rứt trong cõi lòng. Tú Uyên bầu bạn với bức tranh cho khuây khỏa nhưng càng ngắm tranh lại càng nhớ nàng. Bức họa quá đẹp khiế chàng trai đã ngỡ như người thiếu nữ đang kề cạnh rất gần nhưng thực chất khoang cách vẫn quá xa xôi. Những hình ảnh thiên nhiên như “trăng thu”, “Ngàn sương”, “lá khô” khắc họa nên khung cảnh thiên nhiên yên bình, nên thơ. Dưới ánh trăng mùa thu dịa dàng, màn sương mỏng giăng giăng khắp lối tựa như rắc muôn ngàn ánh bạc xuống nhân gian, thảm lá vàng phủ kín khoảnh sân. Thiên nhiên hòa hợp với tâm trạng con người. Trong văn học, buổi chiều là khoảng thời gian đi liền với nỗi nhớ. Ca dao xưa từng nhiều lần diễn đạt nỗi nhớ nhung rất ý nhị, ngọt ngào:

“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai”

Với Tú Uyên, chiều thu cũng gợi niềm thương nỗi nhớ. Chàng thư sinh đã gửi lòng mình trôi theo dòng nước sông Tương, chìm vào cõi mộng mơ vì quá đỗi say mê bóng dáng nàng thiếu nữ. Hình ảnh sông Tương trong câu thơ gắn với điển tích khi Vua Thuần mất, hai người vợ là Nga Hoàn và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông Tương. Từ đó, đây trở thành dòng sông biểu trưng cho nỗi nhớ:

“Sông Tương ai gọi rằng sâu

Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta

Sông Tương sâu hãy còn có đáy

Bệnh tương tư không bãi không bờ”

Hướng về thiên nhiên, thiên nhiên càng khắc sâu sự thương nhớ, trông mong nên Tú Uyên lại quay về giãi bày với chính mình và tâm sự với bức tranh:

“Kề bên năn nỉ bày tình

Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa

Từ phen giáp mặt đến giờ

Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn

Ấy ai điểm phấn tô son

Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?”

Động từ “năn nỉ” thể hiện sự cồn cào, khao khát được giãi bày tình cảm mãnh liệt của Tú Uyên. Tú Uyên trải lòng về hoàn cảnh của chính mình và về tình yêu. Cặp từ đối lập “ngày” - “đêm” đi liền với hai từ “tưởng”, “mơ” thể hiện nỗi nhớ thường trực, không lúc nào ngơi nghỉ mà luôn cuộn xoáy trong tâm trí chàng trai. “đã chồn” tức là quá mệt mỏi, Tú Uyên nhớ nhung Giáng Kiều đã trở thành “bệnh tương tư”. Lời thơ dường như một lời than van, trách móc rất tình tứ. Tú Uyên trách thiếu nữ vì sao lại “điểm phấn tô son” để người quân tử “ruột héo gan mòn”. Tiếng “ai” được lặp lại hai lần, vừa chỉ đối phương vừa chỉ chính mình, đồng nhất hai con người và cũng là hai đầu nỗi nhớ

Tình yêu luôn chứa đựng sức mạnh diệu kì khiến con người có thể đánh đổi tất cả để có được nó. Tú Uyên cũng vậy, chàng đã lấy “Nghìn vàng” và “cung trăng” để thể hiện tình yêu:

“Buồng đào nửa bước chẳng rời

Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?

Rày xin bẻ khoá cung trăng

Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!”

Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức tách mình với thế giới bên ngoài, không rời căn buồng nửa bước. Chàng xin được đổi nghìn vàng để lấy nụ cười của nàng. Chữ “nghìn” chỉ nỗi nhớ đằm sâu, không gì so sánh được. Câu thơ là một câu hỏi tu từ, có tác dụng nhấn mạnh tình cảm của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Không chỉ vậy, chàng còn muốn mở khóa cung trăng để lại được chiêm ngưỡng dung mạo của nàng, vượt qua giới hạn của không gian và thời gian.

Bằng những điển tích, hình ảnh thiên nhiên giàu tính ước lệ, các cặp từ đối lập, cùng câu hỏi tu từ, đoạn thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết, tình yêu mãnh liệt mà Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tình yêu ấy là biểu tượng cho khát khao hạnh phúc, thoát khỏi thực tại buồn bã của con người.

Tiếp đến là những câu thơ thuật lại sự việc khi Tú Uyên và Giáng Kiều gặp nhau:

“So xem phong vị khác thường

Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào

Bếp trời sẵn đó hay sao?

Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!

Sáng mai cứ buổi ra đi

Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi

Bỗng đâu thấy sự lạ đời

Trong tranh sao có bóng người vào ra?

Nhân nhân mày liễu mặt hoa

Này người khi trước đâu mà đến đây?”

Một hôm, Tú Uyên đi học, khi trở về đã thấy trong nhà có cơm canh bày sẵn. Bữa cơm ấy có “phong vị khác thường”, tỏa hương thơm như hoa ngọt ngào. Tú Uyên thấy lạ, lòng nảy sinh mối nghi ngờ. Sáng hôm sau, Tú Uyên vờ đi ra ngoài và bất ngờ trở về thì bắt gặp người con gái có dung mạo vô cùng xinh đẹp từ trong tranh bước ra. Trước sự việc ấy, Tú Uyên quá hạnh phúc khi gặp được người trong mộng nên đã hành động vội vã: “Vội vàng đánh tiếng ra chào”. Chi tiết “Bên mừng bên lệ” cho thấy cảm xúc rối rời, hạnh phúc đến mức rơi lệ.

Đáp lại lời chào hỏi từ Tú Uyên, Giáng Kiều cũng e thẹn giới thiệu về mình. Sự xuất hiện của Giáng Kiều khiến ta liên tưởng đến hình ảnh những nàng tiên, cô Tấm trong truyện cổ dân gian Việt Nam rất mực hiền thục, có tấm lòng thơm thảo. Giáng Kiều cũng là cô gái như vậy. Lời nói của nàng toát lên vẻ đoan trang, dịu dàng:

Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường

Vì mang má phấn nên vương tơ điều

Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu

Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên

Ba sinh đã nặng vì duyên

Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ

Nhân duyên đã định từ xưa

Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân

Cũng là nhờ đức tiên quân

Đóa hoa biết mặt chúa xuân từ rày”

Nàng tự nhận là thân “bồ liễu” mỏng manh, vốn là “khách thanh tiêu” trên trời, có hiệu là Tiên Thù, tên gọi là Giáng Kiều. Vì mối “tơ điều” đã gắn kết nàng và Tú Uyên nên “Ba sinh đã nặng vì duyên”. Qua lời nói của Giáng Kiều có thể thấy mối tình Uyên - Kiều là mối thiên duyên tiền định, được sự đồng thuận của trời đất. Lắng nghe lời nói của Giáng Kiều, Tú Uyên cũng bày tỏ những tâm tư đã chồng chất trong lòng bấy lâu: “Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi?”.

Không chỉ có dung nhan xinh đẹp, lời nói ngọt ngào, phẩm cách trang nhã mà Giáng Kiều còn là người phụ nữ có tấm lòng thủy chung, son sắt trong tình yêu và có ý thức cao độ về danh dự của mình:

“Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu

Tấm son thề với trên đầu xanh xanh

Dám đâu học thói yến oanh

Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương

Gieo thoi trước đã dở dang

Sao nên nát đá phai vàng như chơi

Mái Tây còn để tiếng đời

Treo gương kim cổ cho người soi chung

Lạ gì hoa với gió đông

Tiếc hương vả cũng nể lòng chim xanh

Một mai mưa gió bất tình

Vóc tàn nên để yến oanh hững hờ

Nghĩ trong thân phận yếu thơ

Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!”

Tác giả đã vận dụng điển tích kén rể của vua Hán Vũ Đế cho công chúa ngồi trên lầu cao ném quả cầu xuống, ai bắt được cầu thì lấy người ấy để thể hiện tấm lòng mà Giáng Kiều dành cho Tú Uyên. Hai từ “quyết” và “thề” được đặt ở hai dòng thơ liền nhau cho thấy thái độ nghiêm túc, trang trọng của Giáng Kiều khi nói về hôn nhân, hạnh phúc. Nàng khẳng định tấm lòng trinh bạch của mình khác xa với “thói yến oanh” ham vui và ngắn ngủi. Cặp từ đối lập “mặn” - “nhạt”, “trăng gió” (hời hợt) - “lửa hương” (mặn nồng) được đặt trong cùng một câu thơ càng khẳng định vẻ đẹp phẩm chất của cô gái và tấm lòng chung thủy trong tình yêu. Những điển tích điển cố như “Gieo thoi”, “Mái Tây” thể hiện ý thức giữ gìn tình yêu của người con gái.

Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân

Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi

Song còn mấy bạn tương tri

Bấy lâu chưa có chút gì là đâu

Trước xin từ biệt cùng nhau

Chữ duyên này trở về sau còn dài”

Giáng Kiều đã vận đến “tiền nhân” - duyên nợ từ kiếp trước để nói về lí do nàng xuống trần. Từ trong thâm tâm, Giáng Kiều đã thực sự coi Tú Uyên là “bạn tương tri”. Mối quan hệ tri âm, tri kỉ xưa nay dễ gì bị phai nhạt bởi khoảng cách nên nàng đã hứa “Chữ duyên này trở về sau còn dài”. Nét đẹp của Giáng Kiều nằm ở sự thông minh, khéo léo, tế nhị và tấm lòng trước sau như một.

Sau cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa Tú Uyên và Giáng Kiều là khung cảnh hạnh phúc của đôi uyên ương. Giáng Kiều đã “rút chiếc trâm đầu”, hóa phép tiên để thay đổi khung cảnh xung quanh:

“Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài

Tường quang sáng một góc trời

Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!

Người yểu điệu, khách thanh tạo

Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai

Lả lơi bên nói bên cười

Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang

Đong đưa khoe thắm đua vàng

Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha”

Chỉ trong phút chốc, lều cỏ đã hóa thành lâu đài. Vầng dương quang bao phủ rực rỡ, sáng cả một góc trời. Kẻ vào người ra tấp nập, ai nấy cũng thanh tao, lịch lãm. Các từ láy “Nhởn nhơ”, “Lả lơi”, “Đong đưa” cùng động từ “nói, cười”, “đua”, “khoe” đã diễn tả tâm trạng vui tươi, say trong men rượu của quan khách và gia chủ.

Như vậy, đoạn trích bao gồm nỗi nhớ của Tú Uyên với dáng Kiều, cuộc gặp gỡ của đôi uyên ương chính là biểu hiện cho khát khao hạnh phúc lứa đôi và niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, hệ thống các từ láy giàu tính biểu đạt, các điển tích điển cố, những hình ảnh thiên nhiên ước lệ tượng trưng đã góp phần làm nên thành công cho tác phẩm.

Bài tham khảo Mẫu 2

“Bích Câu kì ngộ” của Vũ Quốc Trân là truyện Nôm xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Câu chuyện kể về một chàng thư sinh tên là Trần tú Uyên gặp nàng Giáng Kiều ở đất Bích Câu và cùng nhau se sợi tơ duyên hạnh phúc. Đoạn trích “Tú Uyên gặp dáng kiều” nói về hoàn cảnh khiến chàng và nàng gặp nhau rồi kết duyên đôi lứa.

Câu thơ đầu đã cho người đọc cảm nhận được gia cảnh nghèo khó của chàng thư sinh Trần Tú Uyên.

“Mưa hoa khép cánh song hồ”

Cuộc đời thật nghiệt ngã với chàng khi cha mẹ chàng mất sớm, chàng một mình lủi thủi với căn nhà giữa hồ Bích Cầu, ngày đêm miệt mài đèn sách. Trong dịp dạo chơi xuân, tình cờ chàng trông thấy một người con gái xinh đẹp như tiên nữ giáng trần, chàng luôn dõi theo sau được một quãng thì nàng biến mất không rõ tung tích. Từ đó, chàng ôm tương tư mà ngày đêm nhung nhớ.

“Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi

Mâm chung một, đũa thêm hai

Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa

...

Cho hay tình cũng là chung

Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!”

Tác giả miêu tả nỗi nhớ của chàng như “sông Tương mơ hình”, sông Tương là nơi hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh đã khóc thương chồng, nay đó là nơi trĩu nặng tương tư của nhân vật. Rồi một ngày, Tú Uyên mua được một bức tranh nàng thiếu nữ với nét đẹp tựa như người chàng đang thương nhớ, chàng mua về treo trong nhà để “sớm khuya” ôm mộng. Chàng nghĩ về người thiếu nữ ấy đến nỗi ngỡ người trong tranh “phát phu”, tưởng tượng người thiếu nữ trong tranh là người thật. Chàng ôm nhung nhớ đến “chồn” cả người, chồn ở đây có nghĩa là ốm yếu, không còn cử động được, chàng nhớ nàng đến mất ăn mất ngủ. Đến nỗi chàng còn ao ước “bẻ khóa cung trăng” để thấy được “chị Hằng” mà chàng ngày êm mộng mị. Có thể thấy nỗi niềm tương tư, tình cảm của chàng thật sâu nặng giống như xuân Diệu đã từng viết bài thơ “Vấn vương”:

“Anh chả hiểu vì sao vấn vương

Năm năm, như mấy chục năm trường

Vẫn là mắt mấy, làn môi ấy

Anh hãy còn thương, chẳng hết thương.”

Một quãng thời gian sau, một hôm Tú Uyên bận công việc ở trường trở về nhà trời đã muộn thì thấy cơm nước được dọn sẵn. Không khỏi thắc mắc, chàng quyết định rình xem người bấy lâu nay chăm sóc, phục vụ bữa cơm miếng nước cho chàng là ai:

“Một khi ra việc trường văn

Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng

So xem phong vị khác thường

Mùi hoa sực nức, mùi hương ngọt ngào

Bếp trời sẵn đó hay sao?

Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!”

Cơm canh tiếp đón không chỉ là cơm canh bình thường mà đầy đủ, sung túc như “bát trân”. Bát trên là mâm cơm với 6 món ăn quý giá, chàng không tin vào mắt mình, chắc hẳn chỉ có “bếp trời” mới làm được như vậy. Chàng quyết định rình một phen thì thấy một nàng thiếu nữ từ trong tranh bước ra:

“Sáng mai cứ buổi ra đi

Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi

Trong tranh sao có bóng người vào ra?

...

Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường

Vì mang má phấn nên vương tơ điều

Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu

Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên”

Thỏa nỗi nhớ mong khi gặp được người trong mộng, mắt chàng rưng rưng “bên mừng bên lệ” thổ lộ tình cảm bấy lâu nay với thiếu nữ. Người tiên nữ e thẹn, ngại ngùng tự xưng là tiên nữ Giáng Kiều, vốn là người cõi tiên, vì có tiền duyên với chàng nên hạ phàm xuống đất:

“Ba sinh đã nặng vì duyên

Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ

Nhân duyên đã định từ xưa

Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân

...

Đã rằng: tác hợp duyên trời

Làm chi cho bận lòng người lắm nao!”

“Ba sinh” ở đây chính là mối nhân duyên tiền kiếp của chàng và nàng. Mối nhân duyên vợ chồng đến bây giờ mới được “tơ trăng” nhờ ân đức của “tiên quân”, nên nàng ngỏ ý nguyện một lòng “tấm son” cùng chàng se mối nhân duyên này:

“Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu”

Tấm son thề với trên đầu xanh xanh”

Từ đó hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, thấu hiểu nhau. Chim yến oanh bay theo từng đàn chúc phúc cho đôi trai tài gái sắc, trăng thanh, hoa nở mừng cho mối lương duyên này. Nàng hoa phép ra lâu đài nguy nga, lộng lẫy có đầy đủ kẻ hầu người hạ. Thiên thời địa lợi nhân hòa chung vui với đôi vợ chồng, “Vũ y”, Nghê thường” hay chính là quần áo, xiêm y lả lướt, thiết tha.

“Đong đưa khoe thắm đua vàng

Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.”

Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” mang âm hưởng dân tộc rõ nét, bút pháp nghệ thuật tài tình trong xây dựng hình tượng nhân vật khi kết hợp tả cảnh với tả tình. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán mang nét mộng tưởng hoang đường về tình yêu. Ẩn chứa trong đó là tâm nguyện của tác giả về một vấn đề len lỏi trong xã hội. Đó là cái nhìn phê phán của tác giả về một xã hội loạn lạc, khó khăn, khiến con người ta muốn thoát ly khỏi thế giới thực tại. Mặt khác, tác phẩm cũng hướng cho con người giải tỏa, cải cách tâm hồn thoát khỏi Nho giáo, tiến đến Phật giáo và Đạo giáo.

Bài tham khảo Mẫu 3

Khi nói về truyện thơ Nôm “Bích Câu kì ngộ,” nhiều người cho rằng tác phẩm vẫn có sức hấp dẫn với nhân dân Việt Nam qua nhiều thế hệ, bởi đó là một truyện thơ Nôm hoàn toàn thuần Việt. Từ các địa danh đến tên của nhân vật, đều rất gắn liền với bản sắc văn hóa Việt Nam. Trong bối cảnh của kinh thành cổ đại Thăng Long, tác giả đã diễn đạt một câu chuyện tình yêu tươi đẹp giữa Tú Uyên và Giáng Kiều. Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” kể về nỗi lòng tương tư của chàng thư sinh và cuộc gặp gỡ bất ngờ của Tú Uyên với người mà anh đã thấy trong giấc mơ.

“Bích Câu kì ngộ” dịch là “Cuộc gặp gỡ kì diệu tại Bích Câu.” Tên “Bích Câu” trong tiêu đề đề cập đến một địa điểm văn hóa nổi tiếng ở kinh thành Thăng Long xưa. Đó là nơi thường xuyên được các vua và quý tộc thăm viếng, cũng là trung tâm hội tụ của các danh nhân và học giả. Tú Uyên, một người thư sinh nghèo, cũng đến Thăng Long để học tập. Một lần, khi anh đang tham quan chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên tình cờ gặp Giáng Kiều và ngay lập tức bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của cô, nhưng trước khi anh kịp làm quen, cô gái tuyệt đẹp này đã biến mất. Sau đó, Tú Uyên tình cờ thấy một người bán tranh tranh tố nữ, và trên một bức tranh, anh nhận ra hình ảnh giống hệt người con gái mà anh đã gặp trước đó. Từ đó, Tú Uyên bị cuốn hút bởi ký ức về Giáng Kiều và dành nhiều thời gian để ngắm nhìn bức tranh đó.

“Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa”

Mở đầu đoạn trích, chúng ta được đưa vào không gian tĩnh lặng của “song hồ,” nơi chàng học trò nghèo Tú Uyên đọc sách và tưởng tượng về người mình yêu. Cụm từ “Sớm khuya” thể hiện sự tuần hoàn không ngừng của thời gian, nhấn mạnh sự liên tục. Từ khi gặp Giáng Kiều, Tú Uyên không ngừng nhớ về cô và không thể quên. Anh đã quên hết mọi thứ xung quanh, chỉ tập trung vào việc ngắm nhìn bức tranh cả ngày lẫn đêm. Nỗi nhớ của anh đối với Giáng Kiều mạnh mẽ đến mức anh cảm thấy như cô gái trong bức tranh thật sự hiện diện trước mắt. Sự tương tư này được thể hiện qua các hành động cụ thể của Tú Uyên. Cặp số “một” và “hai” cùng với các từ “chung” và “thêm” thể hiện sự quý trọng và yêu quý của Tú Uyên đối với bức tranh của Giáng Kiều. Thậm chí, khi ăn, anh cũng ngồi trước bức tranh và tưởng tượng rằng người trong mộng đang đứng trước mặt anh, thế nên anh viết thơ và mời rượu để kỷ niệm.

“Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phu
Êm trời vừa tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gợi tấm thương
Lòng người trông xuống sông Tương mờ hình”

Cặp từ đối lập “gần” và “xa,” cùng với hai động từ “tưởng” và “nghĩ,” thể hiện sự thấu hiểu và niềm nhớ thương dâng trào trong trái tim của Tú Uyên. Anh thú vui trong việc tiếp xúc với bức tranh nhưng mỗi lần anh nhìn vào nó, niềm nhớ về Giáng Kiều lại càng sâu sắc. Bức tranh đẹp đến mức khiến anh cảm nhận như cô gái đang ở rất gần, nhưng thực tế, khoảng cách vẫn còn rất xa. Các hình ảnh thiên nhiên như “trăng thu,” “Ngàn sương,” và “lá khô” tạo ra bức tranh hùng vĩ về thiên nhiên, tràn đầy sự thơ mộng. Dưới ánh trăng mùa thu dịu dàng, màn sương mỏng mơ lan tỏa khắp nơi như đang rải đàn bạc xuống thế gian, tạo nên một tấm thảm đầy lá vàng bao phủ cả khoảnh sân. Sự hòa quyện giữa thiên nhiên và tâm trạng của con người được tạo nên. Trong văn học, buổi chiều thường liên quan đến nỗi nhớ, và những dòng thơ này thể hiện tình cảm niềm nhớ một cách ngọt ngào và đầy ý nghĩa.

“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai”

Với Tú Uyên, chiều thu mang đến cảm giác thương và nhớ về tình yêu. Chàng thư sinh đã đánh mất mình trong dòng nước sông Tương, mê mải tưởng tượng về hình ảnh của nàng thiếu nữ đẹp đẽ. Hình tượng sông Tương liên quan đến một truyền thuyết nổi tiếng, khi Vua Thuần mất đi và hai người vợ của ông, Nga Hoàn và Nữ Anh, đã khóc thảm trên bờ sông Tương. Từ đó, sông Tương trở thành biểu tượng của sự nhớ nhung:

“Sông Tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bảy không bờ”

Hướng về thiên nhiên, thiên nhiên càng khắc sâu sự thương nhớ, trông mong nên Tú Uyên lại quay về giãi bày với chính mình và tâm sự với bức tranh:

“Kề bên năn nỉ bày tình
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa
Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?”

Động từ “năn nỉ” thể hiện sự cảm thấy quyết tâm và khao khát của Tú Uyên khi muốn thể hiện tình cảm sâu sắc của mình. Tú Uyên trải lòng về tình yêu của mình và hoàn cảnh cá nhân. Sự đối lập giữa “ngày” và “đêm” liên quan đến việc suy tưởng và ảo mộng về tình yêu, thể hiện nỗi nhớ không ngừng nghỉ và luôn hiện hữu trong tâm trí của anh. Từ “đã chồn” thể hiện sự mệt mỏi và nỗi nhớ của Tú Uyên đã biến anh trở thành “người bệnh tương tư”. Lời thơ gần như là một cuộc trách móc và than vãn mà anh dành cho Giáng Kiều. Tú Uyên tỏ ra quyết tâm trách móc cô gái vì tại sao cô “điểm phấn tô son” khiến người quân tử “ruột héo gan mòn”. Từ “ai” được lặp lại hai lần, chỉ rõ sự đồng nhất giữa hai con người và nỗi nhớ không dứt.

“Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!”

Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức anh tách mình hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài, không bước ra khỏi căn phòng nửa bước. Anh sẵn sàng đổi cả nghìn vàng chỉ để thấy nụ cười của cô. Từ “nghìn” ở đây thể hiện nỗi nhớ sâu sắc và không thể so sánh được với bất kỳ điều gì khác. Câu thơ đặt ra một câu hỏi tu từ, nhấn mạnh tình cảm mãnh liệt của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tú Uyên còn muốn mở cung trăng để được ngắm nhìn dung mạo của cô, vượt qua giới hạn của thời gian và không gian.

Thông qua những biểu tượng và hình ảnh của thiên nhiên, sự đối lập của từ và câu hỏi tu từ, đoạn thơ đã thể hiện sự da diết của nỗi nhớ và tình yêu mạnh mẽ mà Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tình yêu đó cũng là biểu tượng cho khát vọng của con người, mong muốn tìm kiếm hạnh phúc và thoát ra khỏi hiện thực buồn tẻ.

“So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Bỗng đâu thấy sự lạ đời
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhân nhân mày liễu mặt hoa
Này người khi trước đâu mà đến đây?”

Một ngày, khi Tú Uyên trở về nhà sau giờ học, anh phát hiện một bữa cơm sẵn sàng trên bàn. Bữa ăn ấy mang một “hương vị khác thường,” phát ra một mùi thơm ngọt ngào như hoa. Tú Uyên cảm thấy lạ và bắt đầu nảy sinh nghi ngờ. Sáng hôm sau, anh quyết định giả vờ rời nhà và khi quay lại đột ngột, anh bắt gặp một người con gái vô cùng xinh đẹp bước ra từ bức tranh. Trước tình huống này, Tú Uyên vô cùng hạnh phúc khi gặp được người trong mơ, và anh nhanh chóng “vội vàng đánh tiếng ra chào.” Chi tiết “Bên mừng bên lệ” cho thấy sự rối bời của cảm xúc và niềm hạnh phúc đến mức nước mắt trào ra.

Khi Tú Uyên chào đón Giáng Kiều và được cô giới thiệu về bản thân, sự xuất hiện của Giáng Kiều gợi lên hình ảnh của những nàng tiên, như cô Tấm trong truyện cổ dân gian Việt Nam, với phẩm hạnh thanh khiết và tấm lòng thơm thảo. Giáng Kiều cũng là một cô gái đầy đoan trang và dịu dàng trong lời nói của mình.

Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
Cũng là nhờ đức tiên quân
Đóa hoa biết mặt chúa xuân từ rày”

Giáng Kiều tự giới thiệu mình là một phụ nữ mong manh như “bồ liễu” và như “khách thanh tiêu” ở trên trời, được biết với danh hiệu Tiên Thù và tên gọi Giáng Kiều. Mối “tơ điều” đã nối kết cô và Tú Uyên, và họ đã “Ba sinh đã nặng vì duyên.” Từ lời nói của Giáng Kiều, có thể cảm nhận được rằng tình yêu giữa Uyên và Kiều là một sự kết nối trước định, được thế lực trời đất phê duyệt.

Khi lắng nghe Giáng Kiều nói, Tú Uyên cũng thể hiện những suy tư đã nắm chặt trong lòng từ lâu: “Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi?” Không chỉ sở hữu vẻ đẹp ngoại hình, lời nói êm đềm và phẩm cách lịch lãm, Giáng Kiều còn là một phụ nữ trung thành, kiên định trong tình yêu và có lòng tự trọng cao đối với danh dự của bản thân.

“Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Dám đâu học thói yến oanh
Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương
Gieo thoi trước đã dở dang
Sao nên nát đá phai vàng như chơi
Mái Tây còn để tiếng đời
Treo gương kim cổ cho người soi chung
Lạ gì hoa với gió đông
Tiếc hương vả cũng nể lòng chim xanh
Một mai mưa gió bất tình
Vóc tàn nên để yến oanh hững hờ
Nghĩ trong thân phận yếu thơ
Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!”

Tác giả đã sử dụng điển tích kén rể của vua Hán Vũ Đế, trong đó công chúa ngồi trên lầu cao ném quả cầu xuống, và người nào bắt được quả cầu sẽ trở thành người kén rể, để thể hiện tấm lòng chân thành của Giáng Kiều đối với Tú Uyên. Việc sử dụng hai từ “quyết” và “thề” trong hai dòng thơ liền nhau làm tôn thêm tính nghiêm trọng và chân thành của Giáng Kiều khi nói về hôn nhân và hạnh phúc. Cô khẳng định tình cảm trong sáng của mình hoàn toàn khác biệt với “thói yến oanh” thoảng qua và tạp nham. Cặp từ đối lập như “mặn” và “nhạt”, “trăng gió” (nhẹ nhàng) và “lửa hương” (đam mê mãnh liệt) trong cùng một câu thơ làm nổi bật vẻ đẹp của tâm hồn và lòng chung thủy trong tình yêu của cô gái. Các điển tích truyền thống như “Gieo thoi” và “Mái Tây” thể hiện ý thức của Giáng Kiều trong việc bảo vệ tình yêu của mình.

“Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân
Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi
Song còn mấy bạn tương tri
Bấy lâu chưa có chút gì là đâu
Trước xin từ biệt cùng nhau
Chữ duyên này trở về sau còn dài”

Giáng Kiều đã đến gặp “tiền nhân” – những duyên nợ từ kiếp trước để giải thích về việc nàng xuống trần. Từ đáy lòng, Giáng Kiều thực sự coi Tú Uyên là “bạn tri kỉ”. Mối quan hệ tri âm, tri kỷ này không bao giờ bị phai nhạt bởi khoảng cách, vì vậy nàng đã hứa “Chữ duyên này trở về sau còn dài”. Nét đẹp của Giáng Kiều nằm ở sự thông minh, khéo léo, tế nhị và tấm lòng trung thành.

Sau cuộc gặp gỡ và cuộc trò chuyện giữa Tú Uyên và Giáng Kiều, họ bước vào hạnh phúc của tình yêu đôi, nơi mà Giáng Kiều đã sử dụng phép tiên để thay đổi khung cảnh xung quanh:

“Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài
Tường quang sáng một góc trời
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tạo
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai
Lả lơi bên nói bên cười
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha”

Trong một khoảnh khắc, lều cỏ biến thành một lâu đài huyền bí. Ánh dương ban mai lan tỏa rọi rực, chiếu sáng toàn bộ không gian. Những người tham gia vui vẻ, sôi nổi, trong trang phục lịch lãm và tươi tắn. Từ các từ như “Nhởn nhơ,” “Lả lơi,” “Đong đưa,” cùng với những động từ như “nói, cười,” “đua,” “khoe,” tạo ra một bầu không khí phấn khích, hạnh phúc do rượu và tình bạn đem lại, cả quan khách và chủ nhà đều tràn đầy niềm vui.

Do đó, đoạn văn này thể hiện nỗi nhớ của Tú Uyên về Giáng Kiều và cuộc gặp gỡ của họ, cũng như biểu tượng cho khát khao hạnh phúc của đôi tình nhân và niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Sử dụng hình thức thơ lục bát truyền thống của dân tộc, việc sử dụng các từ láy giàu biểu đạt và các điển tích điển cố, cùng với hình ảnh thiên nhiên tượng trưng đã giúp tạo nên thành công cho tác phẩm.

Quảng cáo

Tham Gia Group Dành Cho 2K8 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí

close