Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Gió thanh lay động cành cô trúc

Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Gió thanh lay động cành cô trúc giúp học sinh soạn bài dễ dàng, chính xác.

Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 10 tất cả các môn - Cánh diều

Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh - Sử - Địa...

Quảng cáo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Tóm tắt

Mẫu 1

Văn bản Gió thanh lay động cành cô trúc là bài phân tích, cảm nhận về bài thơ Thu vịnh của tác giả Nguyễn Khuyến. Hai câu đề gợi lên cái thần thái của trời thu qua phông cảnh, đường nét rộng, thoáng đạt cùng một màu xanh ngắt. Hai câu thực tả cảnh mặt nước và mặt đất khiến bức tranh thu tỏa ra một gam màu xanh vừa thanh đạm vừa sâu lắng. Hai câu luận, không gian và thời gian như được mở rộng ra, bức tranh thu trở nên thi vị hư huyền. Và trong lòng thi nhân lúc này cũng mang nặng nỗi u hoài không dễ gì tỏ bày. Kết thúc bài thơ là bức họa thật nhanh mà cũng thật đọng với nét thanh tao, lặng thầm mà khiêm cung của Nguyễn Khuyến khi thẹn với ông Đào.

Mẫu 2

Văn bản "Gió thanh lay động cành cô trúc" là một bài bình giảng sâu sắc, dẫn dắt người đọc đi vào thế giới nghệ thuật tinh tế trong bài thơ "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến. Tác giả bài viết đã khéo léo phân tích cách mà Tam Nguyên Yên Đổ kiến tạo nên một không gian thu đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ, bắt đầu từ bầu trời xanh ngắt thăm thẳm. Cái thần của mùa thu được gợi mở ngay từ hai câu đề, nơi không gian được mở ra cao rộng và khoáng đạt, tạo nên một phông nền tĩnh lặng tuyệt đối. Điểm nhìn của thi nhân không dừng lại ở bầu trời mà hạ thấp xuống mặt đất và mặt nước ở hai câu thực, nơi sắc xanh vẫn là gam màu chủ đạo nhưng mang vẻ thanh đạm và trầm lắng hơn. Sự chuyển động của sóng biếc và lá vàng tuy nhẹ nhàng nhưng lại càng làm tôn lên cái tĩnh mịch bao trùm vạn vật. Đến hai câu luận, không gian và thời gian nghệ thuật như được nới rộng ra đa chiều, tạo nên một vẻ đẹp thi vị và hư huyền khó tả. Hình ảnh chùm hoa trước giậu và tiếng ngỗng trên không không chỉ là nét vẽ tả thực mà còn chứa đựng nỗi niềm u hoài của kẻ sĩ thời loạn. Tâm trạng ấy càng trở nên rõ nét hơn ở hai câu kết, khi hình ảnh "cành cô trúc" hiện lên dưới làn gió thu nhẹ. Đó là biểu tượng cho cốt cách thanh cao nhưng cô đơn của nhà thơ, người mang nặng nỗi niềm thế sự nhưng đành bất lực. Cái "thẹn" với ông Đào ở cuối bài không phải là sự tự ti thấp kém, mà là biểu hiện của một nhân cách lớn, một lòng tự trọng đáng kính trọng. Qua sự phân tích tài tình của văn bản, ta thấy "Thu vịnh" không chỉ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ mà còn là bức chân dung tinh thần của một nhà nho chân chính.

Mẫu 3

Bài viết tập trung khai thác vẻ đẹp độc đáo của bài thơ "Thu vịnh" thông qua việc phân tích hệ thống hình ảnh và màu sắc, đặc biệt là gam màu xanh chủ đạo. Tác giả văn bản chỉ ra rằng Nguyễn Khuyến đã sử dụng màu xanh như một chất liệu nghệ thuật chính để dệt nên bức tranh thu Bắc Bộ vừa cổ điển vừa gần gũi. Ngay từ hai câu đề, màu "trời thu xanh ngắt" đã bao phủ toàn bộ không gian, gợi lên cảm giác cao vời vợi và sâu thẳm khôn cùng của vòm trời. Sắc xanh ấy lan tỏa xuống hai câu thực, nhuộm màu lên mặt nước "biếc" và hòa quyện với vẻ đìu hiu của cỏ cây, tạo nên một sự thống nhất về tông màu nhưng đa dạng về sắc độ. Tác giả phân tích cho thấy cảnh vật trong thơ Nguyễn Khuyến luôn tĩnh lặng, và chính cái nền xanh ấy làm cho sự xuất hiện của chiếc lá vàng hay chùm hoa càng thêm nổi bật. Hai câu luận tiếp tục mở rộng biên độ của không gian thu sang những chiều kích hư ảo, nơi tiếng ngỗng và ánh trăng (dù không tả trực tiếp) như lẩn khuất đâu đó. Không gian nghệ thuật này chính là tấm gương phản chiếu tâm hồn thanh cao, xa lánh bụi trần của thi nhân. Tuy nhiên, đằng sau vẻ đẹp yên bình của thiên nhiên là những đợt sóng ngầm trong lòng người, được tác giả bài viết gọi tên là nỗi u hoài sâu kín. Nỗi niềm ấy kết tụ lại ở hình ảnh "cành cô trúc" rung rinh trong gió ở phần kết, một nét vẽ mảnh mai nhưng đầy sức gợi. Phân tích về cái thẹn của Nguyễn Khuyến với Đào Tiềm, văn bản khẳng định đó là đỉnh cao của lòng tự trọng và liêm sỉ của người trí thức. Nhờ đó, "Thu vịnh" trở thành một tuyệt tác tả cảnh ngụ tình tiêu biểu của văn học trung đại.




Xem thêm

Mẫu 4

Văn bản "Gió thanh lay động cành cô trúc" đã đi sâu vào thủ pháp nghệ thuật "lấy động tả tĩnh" bậc thầy của Nguyễn Khuyến trong bài thơ "Thu vịnh". Tác giả bài bình giảng nhận định rằng cái tĩnh lặng của mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến là cái tĩnh tuyệt đối, nhưng không phải là cái tĩnh chết, mà là cái tĩnh chứa đựng sự sống. Ở hai câu đề, bầu trời xanh ngắt mở ra một không gian mênh mông, tĩnh tại, làm nền cho toàn bộ bức tranh. Sang hai câu thực, sự chuyển động của "nước biếc" và "lá vàng" là những chuyển động cực nhẹ, cực khẽ, chỉ đủ để người đọc nhận ra sự hiện diện của chúng chứ không phá vỡ bầu không khí yên ắng. Tác giả phân tích rằng chính sự lay động nhẹ nhàng ấy lại càng làm cho cái tĩnh bao trùm trở nên sâu sắc hơn, thấm thía hơn vào lòng người. Đến hai câu luận, âm thanh của tiếng ngỗng trời văng vẳng xa xăm càng tô đậm thêm sự vắng vẻ, hiu quạnh của không gian. Cảnh vật không chỉ được miêu tả bằng thị giác mà còn được cảm nhận bằng thính giác và tâm giác, tạo nên vẻ đẹp hư huyền, lãng đãng. Sự tĩnh lặng của ngoại cảnh đối lập nhưng cũng tương đồng với nỗi niềm u uẩn trong nội tâm nhà thơ. Hình ảnh "cành cô trúc" lay động trước gió ở câu kết là một điểm nhấn nghệ thuật đắt giá, vừa tả thực nét thanh mảnh của cây trúc, vừa gợi tả sự cô đơn của con người. Cái thẹn của Nguyễn Khuyến được tác giả bài viết lý giải là cái thẹn của bậc chính nhân quân tử, biết xấu hổ vì chưa giữ trọn khí tiết như người xưa. Đó là vẻ đẹp của nhân cách tỏa sáng giữa bức tranh thu tĩnh lặng và đượm buồn.

Mẫu 5

Thông qua bài phân tích, người đọc được chiêm ngưỡng một không gian thu đa chiều và giàu sức gợi trong kiệt tác "Thu vịnh". Tác giả văn bản chỉ ra rằng Nguyễn Khuyến không chỉ vẽ mùa thu trên một mặt phẳng mà mở rộng nó ra cả chiều cao, chiều sâu và chiều rộng. Hai câu đề mở ra chiều cao vô tận của bầu trời "xanh ngắt" và chiều rộng của không gian "mấy tầng cao", tạo nên sự khoáng đạt hiếm có. Hai câu thực kéo cái nhìn xuống mặt đất và mặt nước, mở ra chiều sâu của dòng nước biếc và chiều ngang của những luống phong rêu. Sự kết hợp giữa các chiều kích này tạo nên một không gian ba chiều sống động, nơi vạn vật hiện lên vừa rõ nét vừa có hồn. Tác giả bài viết đặc biệt chú ý đến hai câu luận, nơi không gian thực dường như hòa quyện với không gian mộng, tạo nên vẻ "hư huyền" đầy chất thơ. Ở đó, ranh giới giữa ngày và đêm, giữa thực và ảo trở nên mong manh, phù hợp với tâm trạng đầy trăn trở của thi nhân. Không gian ngoại cảnh càng rộng lớn bao nhiêu thì không gian tâm tưởng của nhà thơ càng sâu lắng bấy nhiêu. Nỗi lòng u hoài của Nguyễn Khuyến không ồn ào mà lặn sâu vào cảnh vật, vào tiếng ngỗng trời, vào chùm hoa trước giậu. Kết thúc bài thơ, hình ảnh cần trúc và cái thẹn với ông Đào đã khép lại bức tranh thu nhưng lại mở ra những suy ngẫm vô tận về nhân cách con người. Văn bản khẳng định rằng chính sự hòa quyện giữa không gian vật lý và không gian tâm lý đã làm nên sức sống trường tồn cho bài thơ.

Mẫu 6

Văn bản đi sâu phân tích bài thơ "Thu vịnh" dưới góc độ là lời bộc bạch tâm sự của một nhà nho ẩn dật giữ trọn khí tiết. Tác giả bài viết cho rằng cảnh thu trong bài thơ không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên mà là sự phản chiếu tâm hồn thanh cao của Nguyễn Khuyến. Hai câu đề với bầu trời xanh ngắt tượng trưng cho tấm lòng trong sạch, không vướng bụi trần của thi nhân giữa thời cuộc nhiễu nhương. Cảnh vật ở hai câu thực dù đìu hiu, vắng vẻ nhưng vẫn giữ được nét thanh tao, trang nhã, đúng với cốt cách của một bậc đại nho. Tác giả phân tích sự tinh tế trong việc lựa chọn hình ảnh: nước biếc, lá vàng, trúc, hoa... đều là những thi liệu quen thuộc nhưng được thổi vào đó cái hồn riêng biệt. Hai câu luận mở ra một không gian tâm linh, nơi nhà thơ đối diện với chính mình, với nỗi đau thời thế và nỗi buồn thân phận. Sự "hư huyền" của cảnh vật chính là sự mơ hồ, bất định trong tâm trạng của người trí thức yêu nước nhưng bất lực trước vận mệnh dân tộc. Đỉnh điểm của sự bộc lộ nhân cách nằm ở hai câu kết, với hình ảnh "cành cô trúc" cô đơn nhưng cứng cỏi trước gió. Tác giả bài viết đánh giá rất cao cái "thẹn" của Nguyễn Khuyến trước Đào Tiềm, coi đó là biểu hiện của lòng tự trọng cao độ. Biết thẹn vì chưa thể rũ bỏ hoàn toàn danh lợi hay chưa thể an nhiên tự tại như người xưa chứng tỏ một nhân cách lớn. Bài bình giảng đã thành công trong việc khắc họa chân dung tinh thần của Nguyễn Khuyến qua bức tranh mùa thu.

Mẫu 7

Bài bình giảng tập trung làm rõ sự vận động của mạch cảm xúc trong bài thơ "Thu vịnh", từ sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thiên nhiên đến nỗi niềm suy tư sâu kín. Tác giả văn bản nhận thấy rằng bài thơ bắt đầu bằng một cái nhìn bao quát đầy ấn tượng về bầu trời thu xanh ngắt ở hai câu đề. Cảm xúc lúc này là sự rung động trước cái cao rộng, trong trẻo của đất trời vào thu, một cảm giác thư thái và nhẹ nhàng. Tuy nhiên, khi tầm mắt hạ xuống ở hai câu thực, cảm xúc bắt đầu lắng lại, nhuốm màu trầm mặc của cảnh vật tĩnh lặng và có phần đìu hiu. Sự chuyển biến tâm trạng trở nên rõ rệt hơn ở hai câu luận, khi cái nhìn hướng nội bắt đầu xâm chiếm, cảnh vật trở nên "hư huyền" như chính nỗi lòng khó tả của thi nhân. Tác giả phân tích rằng không gian thu lúc này không còn đơn thuần là cảnh sắc mà đã trở thành không gian tâm trạng, nơi chứa đựng nỗi u hoài của kẻ sĩ. Mạch cảm xúc được đẩy lên cao trào và kết tụ lại ở hai câu kết, nơi hình ảnh ngoại cảnh và tâm cảnh hòa làm một. "Cành cô trúc" vừa là nét vẽ thực của mùa thu, vừa là biểu tượng cho sự cô đơn của nhà thơ. Cái thẹn bất ngờ ở cuối bài là một cú hích cảm xúc, khiến người đọc phải giật mình suy ngẫm về nhân cách và trách nhiệm. Tác giả bài viết khẳng định sự vận động này là logic tâm lý tự nhiên của một tâm hồn nhạy cảm và đầy trăn trở. Chính sự vận động tinh tế ấy đã tạo nên chiều sâu tư tưởng cho bài thơ.

Mẫu 8

Văn bản "Gió thanh lay động cành cô trúc" đã thành công trong việc chỉ ra cái thần thái riêng biệt của mùa thu Bắc Bộ được Nguyễn Khuyến thâu tóm trong "Thu vịnh". Tác giả bài viết nhận định rằng không cần những từ ngữ hoa mỹ, chỉ bằng những nét vẽ đơn sơ, Nguyễn Khuyến đã gọi dậy được linh hồn của mùa thu quê hương. Hai câu đề với bầu trời "xanh ngắt" là đặc trưng không thể trộn lẫn của khí thu miền Bắc, cao, trong và khô ráo. Hai câu thực miêu tả mặt nước, mặt đất với những hình ảnh quen thuộc như cần trúc, gió heo may, nước biếc, tạo nên một không gian gần gũi, thân thương. Tác giả phân tích kỹ lưỡng cách dùng từ của nhà thơ để thấy được sự tinh tế trong việc nắm bắt những khoảnh khắc giao mùa. Cái thần của mùa thu còn nằm ở sự tĩnh lặng tuyệt đối, một sự tĩnh lặng mang tính triết lý, gợi mở những suy tư. Hai câu luận với không gian mờ ảo, hư thực càng làm tăng thêm vẻ huyền bí và quyến rũ của mùa thu. Tác giả bài viết cho rằng Nguyễn Khuyến không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, tình yêu quê hương đất nước thầm kín nhưng sâu sắc. Hình ảnh "cành cô trúc" ở cuối bài như một nét ký họa, cô đúc lại vẻ đẹp thanh tao của mùa thu và của chính con người vùng đồng bằng Bắc Bộ. Qua bài phân tích, người đọc cảm nhận được mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến vừa là mùa thu của đất trời, vừa là mùa thu của lòng người. Cái thần ấy chính là yếu tố làm nên sức sống lâu bền của tác phẩm.

Mẫu 9

Bài phân tích không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp thiên nhiên mà còn khơi sâu vào bi kịch tinh thần của người trí thức cũ qua bài thơ "Thu vịnh". Tác giả văn bản cho rằng đằng sau bức tranh thu êm đềm là cả một nỗi niềm thế sự ngổn ngang của Nguyễn Khuyến. Hai câu đề và thực dù tả cảnh đẹp nhưng vẫn phảng phất nỗi buồn man mác, sự cô đơn của con người trước vũ trụ bao la. Sự tĩnh lặng của mùa thu được tác giả bài viết lý giải là sự tĩnh lặng của sự bất lực, của nỗi đau nén chặt trong lòng. Hai câu luận với từ "u hoài" đã trực tiếp gọi tên tâm trạng của thi nhân, đó là nỗi buồn của kẻ sĩ sinh bất phùng thời, muốn giúp đời nhưng đành bó tay. Không gian "hư huyền" chính là nơi trú ẩn của tâm hồn đang bị tổn thương, đang cố tìm kiếm sự bình yên trong chốc lát. Hình ảnh "cành cô trúc" lẻ loi trước gió ở câu kết là hiện thân rõ nét nhất cho nỗi cô đơn tuyệt đối của nhà thơ giữa dòng đời đục trong. Đặc biệt, cái thẹn với ông Đào được phân tích như một biểu hiện của lương tri thức tỉnh, tự trách mình chưa đủ dũng khí để rũ sạch bụi trần. Tác giả bài viết khẳng định rằng bi kịch của Nguyễn Khuyến là bi kịch của một nhân cách lớn, và chính bi kịch ấy đã làm nên chiều sâu nhân văn cho bài thơ. Qua đó, ta thấy được tấm lòng yêu nước thương dân thầm kín nhưng mãnh liệt của Tam Nguyên Yên Đổ.

Mẫu 10

Văn bản "Gió thanh lay động cành cô trúc" đã phân tích rất kỹ lưỡng bút pháp chấm phá cổ điển mà Nguyễn Khuyến sử dụng trong "Thu vịnh". Tác giả bài viết chỉ ra rằng nhà thơ không sa đà vào việc miêu tả tỉ mỉ, chi tiết mà chỉ chọn lọc những nét tiêu biểu nhất để gợi lên cái hồn của cảnh vật. Hai câu đề chỉ cần một màu "xanh ngắt" là đã vẽ nên cả một bầu trời thu mênh mông, khoáng đạt. Hai câu thực điểm xuyết vài nét về sóng nước, lá vàng nhưng lại có sức gợi hình, gợi cảm vô cùng lớn. Tác giả phân tích rằng khoảng trắng giữa các câu chữ chính là nơi để người đọc tự tưởng tượng và lấp đầy bằng cảm xúc của mình. Hai câu luận tiếp tục sử dụng bút pháp gợi tả, với âm thanh tiếng ngỗng và hình ảnh chùm hoa, tạo nên một không gian thi vị, hư ảo. Lối viết "ý tại ngôn ngoại" được vận dụng triệt để, lời ít mà ý nhiều, cảnh ít mà tình sâu. Hình ảnh "cành cô trúc" ở câu kết là một nét chấm phá đắt giá, vừa tạo hình vừa biểu ý, cô đọng toàn bộ thần thái của bài thơ. Tác giả bài bình giảng khẳng định rằng chính bút pháp chấm phá này đã tạo nên vẻ đẹp thanh tao, sang trọng cho tác phẩm. Nó đòi hỏi người đọc phải có sự đồng cảm và tri âm mới có thể thấu hiểu hết những tầng ý nghĩa ẩn sâu. "Thu vịnh" vì thế trở thành một mẫu mực của thơ ca cổ điển Việt Nam.

Mẫu 11

Bài viết đi sâu vào phân tích sự kết hợp hài hòa và tinh tế giữa màu sắc và âm thanh trong bài thơ "Thu vịnh". Tác giả văn bản nhận thấy rằng Nguyễn Khuyến là một họa sĩ tài ba khi phối màu cho bức tranh thu, đồng thời là một nhạc sĩ nhạy cảm khi lắng nghe những thanh âm của đất trời. Màu xanh ngắt của bầu trời ở hai câu đề làm nền tảng, tạo nên tông màu lạnh và tĩnh cho toàn bài. Trên nền xanh ấy, những điểm xuyết của lá vàng, nước biếc ở hai câu thực hiện lên như những nốt nhạc trầm lắng, dịu nhẹ. Tác giả phân tích rằng âm thanh trong bài thơ rất ít, chỉ là tiếng sóng vỗ nhẹ hay tiếng ngỗng trời xa xăm, nhưng chính sự khan hiếm ấy lại làm nổi bật cái tĩnh lặng bao trùm. Âm thanh ở đây không phá vỡ sự yên tĩnh mà ngược lại, làm cho sự yên tĩnh trở nên sâu hơn, mênh mang hơn. Hai câu luận là sự giao thoa tuyệt vời giữa hình ảnh mờ ảo và âm thanh mơ hồ, tạo nên vẻ đẹp "hư huyền" đầy chất thơ. Sự hài hòa này không chỉ là kỹ thuật nghệ thuật mà còn phản ánh sự cân bằng trong tâm hồn nhà thơ, dù đang mang nặng nỗi buồn. Hình ảnh cành trúc và cái thẹn ở cuối bài là nốt lặng cuối cùng, dư ba và đầy ám ảnh. Tác giả bài viết kết luận rằng sự hòa quyện giữa sắc và thanh đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt cho "Thu vịnh".

Mẫu 12

Văn bản tập trung khai thác vẻ đẹp của sự tĩnh lặng - một đặc trưng thẩm mỹ trong thơ thu Nguyễn Khuyến - qua bài "Thu vịnh". Tác giả bài bình giảng cho rằng toàn bộ bài thơ được bao phủ bởi một bầu không khí yên ắng, thanh tịnh đến mức tuyệt đối. Từ bầu trời xanh ngắt cao vời vợi ở câu đề đến mặt nước biếc phẳng lặng ở câu thực, tất cả đều toát lên vẻ tĩnh tại, không chút ồn ào. Tác giả phân tích rằng sự chuyển động của vạn vật như gió rung, lá rơi cũng diễn ra trong sự im lặng, nhẹ nhàng như không muốn làm kinh động đến không gian. Sự tĩnh lặng này không gây cảm giác nhàm chán mà trái lại, nó gợi lên sự sâu lắng, suy tư và chiêm nghiệm. Ở hai câu luận, cái tĩnh lan tỏa sang cả không gian tâm tưởng, khi tiếng ngỗng trời chỉ là âm thanh văng vẳng, mơ hồ, càng làm tôn thêm vẻ cô tịch. Tác giả bài viết nhận định rằng sự tĩnh lặng của ngoại cảnh chính là tấm gương phản chiếu nội tâm đang cố gắng giữ sự bình yên của nhà thơ trước thời cuộc đầy biến động. Hình ảnh "cành cô trúc" đứng yên hoặc khẽ lay trong gió ở cuối bài là biểu tượng của sự kiên định, vững vàng trong tâm hồn. Cái thẹn của Nguyễn Khuyến cũng là một cái thẹn thầm lặng, một sự tự vấn lương tâm đầy day dứt. Qua đó, vẻ đẹp của sự tĩnh lặng trở thành vẻ đẹp của nhân cách và trí tuệ.

Mẫu 13

Bài phân tích dành sự quan tâm đặc biệt đến hình tượng "cành cô trúc" ở phần kết bài thơ, coi đây là nhãn tự và là linh hồn của tác phẩm. Tác giả văn bản lý giải rằng trúc là biểu tượng quen thuộc của người quân tử trong văn học cổ điển, tượng trưng cho sự thẳng thắn, cứng cỏi và thanh cao. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến đã thêm từ "cô" (cô đơn, lẻ loi) để tạo nên một sắc thái ý nghĩa mới mẻ và đầy ám ảnh. "Cành cô trúc" không chỉ là hình ảnh tả thực cây trúc trong vườn thu mà là hình ảnh ẩn dụ cho chính bản thân nhà thơ: một con người tài năng, đức độ nhưng cô độc giữa thời cuộc. Tác giả bài viết phân tích sự lay động của cành trúc trước gió thanh: đó là sự rung cảm tinh tế của tâm hồn thi nhân trước vẻ đẹp thiên nhiên, nhưng cũng là sự chao đảo của số phận trước bão táp cuộc đời. Hình ảnh này đối lập với không gian rộng lớn xung quanh, càng làm nổi bật sự nhỏ bé nhưng kiên cường của con người. Nó gắn liền với cái thẹn với ông Đào, tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật hoàn hảo về nhân cách nhà nho. Tác giả khẳng định rằng qua hình tượng này, Nguyễn Khuyến đã gửi gắm nỗi niềm tâm sự sâu kín nhất của mình. Đó là nỗi buồn của một người tỉnh táo giữa đám đông say, của một người giữ mình trong sạch giữa dòng đời vẩn đục. Hình tượng "cành cô trúc" vì thế mà trở nên bất tử trong lòng người đọc.

Mẫu 14

Văn bản "Gió thanh lay động cành cô trúc" đã phân tích rất sâu sắc về cái "thẹn" của Nguyễn Khuyến ở câu kết bài thơ "Thu vịnh". Tác giả bài viết khẳng định rằng đây không phải là cái thẹn của kẻ hèn kém, mà là cái thẹn của một nhân cách lớn, một bậc đại trí. Nguyễn Khuyến thẹn với ông Đào (Đào Tiềm) vì cảm thấy mình chưa đạt đến độ thanh cao, thoát tục hoàn toàn như người xưa. Ông Đào từ quan về ở ẩn để giữ trọn khí tiết, còn Nguyễn Khuyến tuy cũng về ở ẩn nhưng lòng vẫn chưa nguôi nỗi lo nước thương đời, vẫn cảm thấy mình "mang tiếng" với non sông. Tác giả phân tích rằng cái thẹn này xuất phát từ lòng tự trọng cao độ và ý thức trách nhiệm sâu sắc của nhà thơ đối với dân tộc. Nó cho thấy một tâm hồn luôn tự soi xét, tự vấn để hoàn thiện mình, không chấp nhận sự thỏa hiệp hay dễ dãi. Cái thẹn ấy nâng tầm vóc của Nguyễn Khuyến lên, khiến ông trở nên gần gũi và đáng kính trọng hơn bao giờ hết. Tác giả bài viết cũng liên hệ với bối cảnh lịch sử để thấy rằng nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến còn mang ý nghĩa xã hội rộng lớn, là nỗi đau của cả một thế hệ nhà nho yêu nước bất lực. Kết thúc bài thơ bằng một nỗi thẹn là cách kết thúc mở, để lại dư ba trong lòng người đọc. Đó là nét đẹp nhân văn ngời sáng của thơ văn Nguyễn Khuyến.

Mẫu 15

Bài bình giảng làm rõ đặc điểm "thi trung hữu họa" (trong thơ có họa) của bài "Thu vịnh", một đặc trưng nổi bật của thơ ca cổ điển phương Đông. Tác giả văn bản chỉ ra rằng mỗi câu thơ của Nguyễn Khuyến đều như một nét vẽ tài hoa, tạo nên một bức tranh thu hoàn chỉnh về đường nét, màu sắc và bố cục. Hai câu đề phác họa nền trời xanh ngắt mênh mông, tạo phông nền rộng lớn cho bức tranh. Hai câu thực điểm xuyết những chi tiết cụ thể như cần trúc, mặt nước, lá vàng với sự phối màu hài hòa, trang nhã. Tác giả phân tích rằng bức tranh này không chỉ đẹp ở hình thức mà còn có chiều sâu, có sự xa gần, mờ tỏ rất gợi cảm. Hai câu luận tiếp tục vẽ nên những hình ảnh hư ảo, mờ nhòe như trong tranh thủy mặc, gợi sự liên tưởng phong phú. Đặc biệt, hình ảnh "cành cô trúc" ở cuối bài như một nét ký họa thần tình, điểm xuyết vào không gian tĩnh lặng, làm cho bức tranh trở nên sống động và có hồn. Tác giả bài viết nhận định rằng Nguyễn Khuyến đã sử dụng ngôn ngữ để kiến tạo hình ảnh, khiến người đọc không chỉ nghe thấy mà còn nhìn thấy mùa thu. Bức họa thu này không rực rỡ, chói lóa mà đằm thắm, dịu nhẹ, thấm đẫm tình quê hương. Chính chất họa trong thơ đã làm cho "Thu vịnh" trở nên dễ cảm, dễ nhớ và đi sâu vào tâm khảm bao thế hệ.

Mẫu 16

Văn bản tập trung khai thác chiều sâu tâm trạng của nhân vật trữ tình, đặc biệt là nỗi u hoài của kẻ sĩ Bắc Hà trong buổi giao thời. Tác giả bài viết cho rằng vẻ đẹp của "Thu vịnh" không chỉ nằm ở cảnh sắc thiên nhiên mà chủ yếu nằm ở tấm lòng của người ngắm cảnh. Nỗi u hoài ấy không được bộc lộ ồn ào, trực diện mà lẩn khuất sau từng câu chữ, từng hình ảnh thơ. Từ bầu trời xanh ngắt đến tiếng ngỗng trời xa xăm, tất cả đều nhuốm màu tâm trạng, một nỗi buồn man mác, khôn nguôi. Tác giả phân tích rằng nỗi buồn này bắt nguồn từ tình yêu nước thầm kín, từ nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan mà bản thân không thể làm gì hơn. Sự "hư huyền" của cảnh vật ở hai câu luận chính là sự phản chiếu tâm trạng hoang mang, lạc lõng của nhà thơ trước thời cuộc đổi thay. Hình ảnh cành trúc cô đơn và cái thẹn với người xưa là đỉnh điểm của nỗi niềm u uẩn đó. Tác giả bài viết khẳng định rằng Nguyễn Khuyến là người có nhân cách lớn, nhưng sinh ra trong thời đại bi kịch nên nỗi buồn là điều tất yếu. Nỗi u hoài trong thơ ông không bi lụy mà mang vẻ đẹp của sự trầm tư, trăn trở đầy trách nhiệm. Đó là tiếng lòng của một thế hệ trí thức yêu nước nhưng bất lực, được gửi gắm tinh tế qua vần thơ thu.

Mẫu 17

Bài phân tích gợi mở một góc nhìn thú vị về mối liên hệ giữa mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến và nỗi nhớ về những giá trị cổ xưa. Tác giả văn bản cho rằng khi đối diện với mùa thu, lòng người thường hay hoài cổ, và Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ. Bức tranh thu được vẽ lên với những nét cổ điển, trang trọng như muốn níu giữ lại vẻ đẹp của một thời quá vãng vàng son. Hình ảnh ông Đào (Đào Tiềm) xuất hiện ở cuối bài không phải ngẫu nhiên mà là sự ngưỡng vọng của nhà thơ đối với những bậc cao nhân thời xưa. Tác giả phân tích rằng Nguyễn Khuyến nhớ người xưa cũng chính là nhớ về những chuẩn mực đạo đức, những khí tiết thanh cao đang dần bị mai một trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Sự so sánh ngầm giữa mình và người xưa dẫn đến cái "thẹn", một phản ứng tâm lý đầy tự trọng. Mùa thu trở thành cái cớ, thành môi trường để thi nhân đối thoại với quá khứ, soi chiếu lại chính mình. Tác giả bài viết nhận định rằng "Thu vịnh" là cây cầu nối giữa hiện tại đầy nhiễu nhương với quá khứ thanh bình, lý tưởng. Nỗi nhớ người xưa thực chất là nỗi khát khao được sống một cuộc đời thanh sạch, trọn vẹn nghĩa tình. Qua đó, bài thơ mang đậm giá trị nhân văn và tinh thần dân tộc sâu sắc.

Mẫu 18

Văn bản "Gió thanh lay động cành cô trúc" đã phân tích sự chặt chẽ và độc đáo trong cấu tứ của bài thơ "Thu vịnh". Tác giả bài viết chỉ ra rằng bài thơ tuân thủ nghiêm ngặt niêm luật của thơ Đường luật nhưng vẫn có sự sáng tạo linh hoạt, phóng khoáng. Cấu trúc Đề - Thực - Luận - Kết được triển khai một cách logic, dẫn dắt cảm xúc người đọc đi từ ngoại cảnh vào nội tâm. Hai câu đề mở ra không gian, hai câu thực khắc họa chi tiết, hai câu luận mở rộng cảm xúc và hai câu kết khép lại bằng một suy ngẫm sâu sắc. Tác giả phân tích sự liên kết ngầm giữa các phần: màu xanh của trời nối liền với màu biếc của nước, cái tĩnh của cảnh dẫn đến cái động của tâm. Đặc biệt, sự xuất hiện bất ngờ của cái "thẹn" ở cuối bài là một cú "lật" đầy nghệ thuật, làm thay đổi toàn bộ âm hưởng của bài thơ, từ tả cảnh sang tự sự, trữ tình. Tác giả bài viết đánh giá cao tài năng của Nguyễn Khuyến trong việc vận dụng thể thơ cổ điển để diễn tả những rung cảm rất Việt Nam. Cấu tứ bài thơ vừa chặt chẽ như một công trình kiến trúc, vừa mềm mại như một bức tranh thủy mặc. Chính cấu tứ này đã giúp cho ý thơ được triển khai trọn vẹn và sâu sắc nhất.

Mẫu 19

Bài bình giảng dành nhiều lời khen ngợi cho sự tinh tế, điêu luyện trong việc sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt của Nguyễn Khuyến. Tác giả văn bản nhận định rằng "Thu vịnh" là minh chứng cho khả năng Việt hóa thơ Đường luật bậc thầy của Tam Nguyên Yên Đổ. Những từ ngữ được sử dụng đều rất giản dị, nôm na như "xanh ngắt", "nước biếc", "cành trúc", "giậu"... nhưng lại có sức gợi hình, gợi cảm ghê gớm. Tác giả phân tích các từ láy, các tính từ chỉ màu sắc, mức độ để thấy được sự chính xác trong việc miêu tả thần thái mùa thu. Cách ngắt nhịp, gieo vần cũng góp phần tạo nên nhạc điệu êm ái, du dương cho bài thơ, phù hợp với không khí tĩnh lặng của mùa thu. Đặc biệt, ngôn ngữ ở hai câu kết mang đậm sắc thái biểu cảm, cô đọng và hàm súc. Tác giả bài viết cho rằng Nguyễn Khuyến đã chắt lọc những gì tinh túy nhất của ngôn ngữ dân tộc để đưa vào thơ, làm cho bài thơ vừa sang trọng, cổ điển lại vừa gần gũi, bình dị. Không cần dùng nhiều từ Hán học cầu kỳ, ông vẫn diễn tả được những ý tứ sâu xa, thâm trầm. Đó chính là tài năng trác tuyệt của một bậc thầy ngôn ngữ.

Mẫu 20

Văn bản đi sâu vào phân tích tâm thế của người ẩn dật được thể hiện qua bài thơ "Thu vịnh", một tâm thế vừa an nhiên tự tại vừa đầy trăn trở. Tác giả bài viết cho rằng Nguyễn Khuyến về ở ẩn không phải để trốn tránh đời mà để giữ gìn khí tiết, nhưng lòng ông vẫn không nguôi lo nghĩ cho dân cho nước. Cảnh thu trong bài thơ được nhìn qua lăng kính của một người đã rời xa chốn quan trường, tìm vui thú điền viên. Tuy nhiên, sự tĩnh lặng của cảnh vật lại gợi lên những suy tư về thế thái nhân tình. Tác giả phân tích cái "thẹn" ở cuối bài như một minh chứng cho thấy tâm thế ẩn dật của Nguyễn Khuyến không hoàn toàn thanh thản. Ông vẫn đau đáu nỗi niềm chưa làm tròn trách nhiệm của kẻ sĩ, vẫn cảm thấy mình "mang nợ" với non sông. Tâm thế ấy tạo nên một sự xung đột nội tâm âm thầm nhưng mãnh liệt, làm cho bài thơ có chiều sâu tư tưởng. Hình ảnh "cành cô trúc" chính là biểu tượng cho tư thế hiên ngang, bất khuất của người ẩn dật giữa gió bụi cuộc đời. Tác giả bài viết khẳng định rằng tâm thế này là đại diện cho cả một lớp nhà nho yêu nước thời bấy giờ. Qua đó, ta càng thêm trân trọng nhân cách cao đẹp của Nguyễn Khuyến.

Mẫu 21

Bài phân tích làm nổi bật mối giao hòa sâu sắc, tinh tế giữa thiên nhiên mùa thu và tâm hồn con người trong "Thu vịnh". Tác giả văn bản nhận định rằng trong thơ Nguyễn Khuyến, thiên nhiên và con người không tách rời mà luôn hòa quyện, soi chiếu lẫn nhau. Cảnh thu tĩnh lặng, trong trẻo chính là sự phản chiếu tâm hồn thanh cao, ưa chuộng sự yên bình của thi nhân. Ngược lại, tâm trạng u hoài của con người cũng nhuốm màu lên cảnh vật, khiến cho bức tranh thu mang mác buồn. Tác giả phân tích rằng sự giao hòa này đạt đến độ "cảnh tình tương sinh", nhìn cảnh thấy tình, trong tình có cảnh. Tiếng ngỗng trời hay hình ảnh chùm hoa không chỉ là vật vô tri mà dường như cũng mang tâm trạng, cũng biết sẻ chia nỗi niềm với nhà thơ. Cái thẹn của con người trước thiên nhiên, trước người xưa cũng là một dạng giao hòa đặc biệt, thể hiện sự khiêm cung và tự trọng. Tác giả bài viết kết luận rằng chính sự giao hòa này đã làm cho bài thơ có sức sống, có hồn. Thiên nhiên trong "Thu vịnh" không phải là thiên nhiên hoang dã mà là thiên nhiên đã được nhân hóa, trở thành người bạn tri âm tri kỷ của thi nhân. Đó là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.

Mẫu 22

Văn bản "Gió thanh lay động cành cô trúc" đã chỉ ra sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và những nét hiện đại (theo nghĩa gần gũi, dân tộc) trong "Thu vịnh". Tác giả bài viết cho rằng tính cổ điển thể hiện ở đề tài mùa thu, ở thể thơ Đường luật, ở hệ thống thi liệu ước lệ như trời xanh, nước biếc, trúc, hoa, ông Đào. Những yếu tố này tạo nên vẻ đẹp trang trọng, uy nghi cho bài thơ. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến đã thổi vào đó một luồng gió mới mẻ, mang đậm hồn cốt dân tộc Việt Nam. Cảnh thu là cảnh nông thôn Bắc Bộ bình dị, ngôn ngữ thơ là lời ăn tiếng nói hàng ngày, cảm xúc thơ là nỗi niềm thế sự chân thực. Tác giả phân tích rằng chính sự Việt hóa này đã làm cho bài thơ vượt thoát khỏi khuôn sáo của thơ ca trung đại, trở nên gần gũi và sống động hơn. Vẻ đẹp cổ điển làm nền tảng để vẻ đẹp dân tộc tỏa sáng, và ngược lại. Tác giả bài viết đánh giá cao sự sáng tạo của Nguyễn Khuyến trong việc làm mới những cái cũ, biến di sản văn hóa chung thành tài sản riêng của mình. Nhờ đó, "Thu vịnh" vừa mang dáng dấp của thơ Đường, vừa đậm đà bản sắc Việt.

Mẫu 23

Bài bình giảng khai thác sâu vào tầng ý nghĩa thế sự ẩn chứa sau lớp vỏ ngôn từ tả cảnh của bài thơ. Tác giả văn bản cho rằng nỗi buồn trong "Thu vịnh" không đơn thuần là nỗi buồn trước sự tàn phai của mùa thu mà là nỗi buồn thế sự sâu sắc. Bầu trời xanh ngắt hay mặt nước biếc dù đẹp nhưng lạnh lẽo, gợi cảm giác cô đơn, trống trải của con người trước thời cuộc đen tối. Tiếng ngỗng trời khắc khoải hay cái bóng thầm lặng của cành trúc đều là những tín hiệu thẩm mỹ gợi nhắc về thân phận nổi trôi của đất nước. Tác giả phân tích cái thẹn của Nguyễn Khuyến không chỉ là chuyện cá nhân mà là nỗi đau của một người dân mất nước, một trí thức bất lực. Ông thẹn vì mình tài hèn sức mọn, không thể xoay chuyển càn khôn, đành phải về ở ẩn "lánh đục tìm trong". Nỗi buồn ấy thấm đẫm trong từng câu chữ, tạo nên sức nặng tư tưởng cho bài thơ. Tác giả bài viết khẳng định rằng chính nỗi đau đời này đã nâng tầm vóc của bài thơ, khiến nó không chỉ là một bức tranh phong cảnh mà là một chứng tích tâm trạng của thời đại. Đọc "Thu vịnh", ta thương cảm và kính trọng một nhân cách lớn.

Mẫu 24

Văn bản phân tích cách sử dụng điển cố "ông Đào" một cách đắt giá và đầy ý nghĩa của Nguyễn Khuyến trong phần kết bài thơ. Tác giả bài viết chỉ ra rằng việc dùng điển cố trong thơ cổ là chuyện thường, nhưng dùng sao cho "đắt", cho hợp tình hợp cảnh thì không phải ai cũng làm được. Điển cố về Đào Tiềm từ quan về ở ẩn được Nguyễn Khuyến đưa vào rất tự nhiên, như một cái cớ để bộc lộ nỗi lòng mình. Tác giả phân tích rằng Nguyễn Khuyến không ví mình với Đào Tiềm để tự cao, mà ngược lại, để thấy mình "thẹn", thấy mình chưa bằng người xưa. Sự đối sánh này làm nổi bật đức khiêm tốn và lòng tự trọng của nhà thơ. Điển cố không làm cho bài thơ trở nên rắc rối, khó hiểu mà ngược lại, nó mở rộng trường liên tưởng, khơi gợi những giá trị đạo đức truyền thống. Tác giả bài viết nhận định rằng qua việc sử dụng điển cố, Nguyễn Khuyến đã đặt mình vào dòng chảy của văn hóa phương Đông, đối thoại với người xưa để khẳng định bản ngã của mình. Đó là một cách sử dụng điển cố sáng tạo, mang đậm dấu ấn cá nhân.

Mẫu 25

Bài bình giảng khắc họa chân dung cái tôi trữ tình của Nguyễn Khuyến trong "Thu vịnh": một cái tôi đầy trăn trở, suy tư và giàu lòng tự trọng. Tác giả văn bản cho rằng cái tôi ấy không xuất hiện trực tiếp bằng đại từ nhân xưng mà ẩn mình sau cảnh vật, sau những suy ngẫm lặng thầm. Bức tranh thu càng tĩnh lặng bao nhiêu thì sóng lòng của thi nhân càng cuộn trào bấy nhiêu. Cái tôi ấy nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng cũng đầy âu lo trước vận mệnh đất nước. Tác giả phân tích sự chuyển biến từ người quan sát cảnh vật sang người tự vấn lương tâm ở cuối bài là hành trình tìm kiếm bản ngã của cái tôi trữ tình. Cái thẹn là biểu hiện cao nhất của ý thức cá nhân, của trách nhiệm công dân trước lịch sử. Tác giả bài viết khẳng định rằng cái tôi của Nguyễn Khuyến là cái tôi điển hình cho mẫu hình nhà nho chân chính giai đoạn cuối mùa: tài năng, đức độ nhưng gặp thời thế trớ trêu. Qua bài thơ, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao thượng của ông.

Mẫu 26

Tác giả bài viết khẳng định "Thu vịnh" là một kiệt tác của thơ Nôm Đường luật, đỉnh cao của thơ ca viết về mùa thu trong văn học Việt Nam. Về nghệ thuật, bài thơ thành công nhờ bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện, ngôn ngữ tinh tế, giàu hình ảnh và nhạc điệu, cùng cấu tứ chặt chẽ, sáng tạo. Về nội dung, bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh thu Bắc Bộ tuyệt đẹp, có thần mà còn thể hiện sâu sắc nỗi lòng u hoài, trăn trở của một nhà nho yêu nước. Hình tượng "cành cô trúc" và cái thẹn đầy nhân văn đã trở thành những dấu ấn không thể phai mờ. Tác giả văn bản đánh giá rằng bài thơ là sự kết tinh của tài năng và nhân cách Nguyễn Khuyến, là viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân tộc. Qua bài phân tích, người đọc càng thêm hiểu và yêu mến hồn thơ Nguyễn Khuyến, một hồn thơ bình dị mà cao quý, u hoài mà sâu sắc. "Thu vịnh" sẽ mãi lay động tâm hồn các thế hệ người đọc Việt Nam.

 

Bố cục

Văn bản chia thành 4 phần:

- Phần 1: Từ đầu đến “Nguyễn Khuyến đấy chăng”: Phân tích vẻ đẹp của hai câu đề trong bài thơ Thu Vịnh – Nguyễn Khuyến. 

- Phần 2: Tiếp theo đến “thông thoáng trữ tình ấy”: Vẻ đẹp trong hai câu thực. 

- Phần 3: Tiếp theo đến “lời vận đạm là thế”: Phân tích hai câu luận. 

- Phần 4: Còn lại: Phân tích hai câu kết. 

Nội dung chính

Văn bản là bài phân tích, cảm nhận về bài thơ Thu vịnh của tác giả Nguyễn Khuyến. 

PH/HS Tham Gia Nhóm Lớp 10 Để Trao Đổi Tài Liệu, Học Tập Miễn Phí!

close