Phong trào thơ mới ở Việt Nam
I. SỰ RA ÐỜI CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI
Sau chiến tranh thế giới lần thứ I (1914-1918), ở Việt Nam xuất hiện một giai cấp mới, đó là giai cấp Tư sản. Chủ nghĩa tư bản đồng thời xâm nhập và thống trị đất nước ta, gây nên một cuộc xáo trộn lớn chưa hề thấy trong mấy nghìn năm lịch sử Việt Nam. Những giá trị tư tưởng vững bền từ cuối thế kỷ XIX đã trở thành đối tượng mỉa mai cay đắng trong thơ Tú Xương. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đi đôi với chính sách đẩy mạnh khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, làn gió mới Tây Âu cũng tràn vào Việt Nam. Tầng lớp tiểu tư sản thành thị có điều kiện hình thành sớm hơn sau đợt khai thác kinh tế lần thứ I của thực dân Pháp.
Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp đã có một lối sinh hoạt văn minh ở thành thị. Người ta ở nhà lầu đi ô tô, dùng quạt điện, đi hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên nam nữ, các cô gái chàng trai, mỗi năm một mốt. Những đổi thay về sinh hoạt dần tới sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn học Pháp đặc biệt là văn hóa lãng mạn Pháp.
Chính những đổi mới trong sinh hoạt tư tưởng và sự tiếp xúc với văn học lãng mạn Pháp đã dần dần đem đến cho thanh niên tiểu tư sản thành thị những năm 30 của thế kỷ này những tình cảm mới, những rung động mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn khác các nhà thơ xưa. Trong buổi diễn thuyết ở nhà hội Quy Nhơn tháng 6-1934, Lưu Trọng Lư đã nói :Các cụ ta ưa những màu đỏ chót, ta lại ưa màu xanh nhạt,đứng trước một cô gái xinh đẹp các cụ xem như là một việc làm tội lỗi, còn đối với ta như đứng trước một cánh đồng xanh mát mẻ…
Chính vì sự khác nhau sâu xa đó giữa hai thế hệ mà những câu thơ ngâm hoa vịnh nguyệt sáo mòn và cũ rích trên Nam Phong , Văn học tạp chí, Tiếng dân không còn hợp với tình cảm mới của họ. Phong trào Thơ mới lãng mạn ra đời năm 1932 chính là để đáp ứng nhu cầu tình cảm của một tầng lớp thanh niên mới.
Một phong trào văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của xã hội. Nó là tiếng nói của một tầng lớp người, của một giai cấp vừa mới ra đời, đang lớn lên hoặc già cỗi trong xã hội. Thơ cũ trong Nam Phong, Văn học tạp chí là tiếng nói của một tầng lớp phong kiến đã thất bại và đầu hàng đế quốc. Văn học lãng mạn 1932 trở đi là tiếng nói của tư sản và tiểu tư sản thành thị. Thơ mớichủ yếu là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị là nguyên nhân chính cho phong trào Thơ mới ra đời.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI |
Theo ông Phan Cư Ðệ có thể chia phong trào thơ mới ra 2 thời kỳ: 1932-1939
1940-1945
Còn giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam thì chia làm 3 thời kỳ, chia như thế có lẽ hợp lý hơn.
1. Thời kỳ 1932-1935:
Thơ mới ra đời trong một hoàn cảnh như trên đã trình bày. Những biểu hiện ban đầu nổi lên trên bề mặt công luận là cuộc đấu tranh chống lại thơ cũ.
Bắt đầu quá trình sinh thành của Thơ mới, bài thơ được gọi là Thơ mới và dư luận khen chê sôi nổi là bài Tinh già của Phan Khôiđược ra mắt bạn đọc trên Phụ nữ Tân văn số 122, ngày 10-3-1932, cùng với bài giới thiệu lấy tên Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ:
Hai mươi năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa . dưới ngọn đèn mờ , trong ngôi nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn không đặng
Ðể đến nỗi tình trước phụ sau, chi bằng sớm liệu mà buông nhau
Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ.
Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy.
Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung…
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau:
Ðôi cái đầu bạc. Nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi
(Tình già- Phan Khôi)
Bài giới thiệu của Phan Khôi cùng với thơ Tình già được coi như phát súng lệnh của phong trào Thơ mới. Từ đây cuộc đấu tranh rầm rộ của thơ mới vào thơ cũ. Trên hàng chục tờ báo cả 3 miền Bắc, Trung, Nam và trên nhiều diễn đàn, từ Sài gòn, Quy nhơn ra Nam định, Hà nội, người ta ra sức phê phán thơ cũ.
a. Cuộc đấu tranh giữa thơ cũ và thơ mới:
Tháng 11 năm 1917 trên Nam phong tạp chí Bàn về thơ Nôm, Phạm Quỳnh viết: thơ cũ là phiền phức, luật lệ ràng buộc, khắc nghiệt không khác luật hình.
Năm 1928 trên báo Trung Bắc Tân Văn, Nguyễn Văn Vĩnh dịch bài thơ của LaFontaine:
Con ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Ðến kì gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối…
Ðây là bài thơ dịch theo thể thơ tự do và được người đọc rất hâm mộ. Ðây chính là cơ sở cho một thể thơ mới ra đời.
Cuộc bút chiến này có hai phe, phe thơ cũ và phe thơ mới.
_ Ý kiến của phe thơ mới:
Phụ nữ Tân Văn số 29, ra ngày 21 tháng 11 năm 1929: … lối thơ Ðường luật bó buộc người làm thơ phải theo khuôn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi dào, nếu ngày nay ta cứ sùng theo lối thơ ấy mãi thì làng văn Nôm ta không có ngày đổi mới được (Trịnh Ðình Rư)
Ngày 10 tháng 3 năm 1932 phụ nữ Tân Văn số 132 một lối thơ trình chánh giữa làng thơ. Ðó là bài Tình già của Phan Khôi. Tác giả đem trình làng đứa con tình thần có trước bạ.
Phan Khôi viết: lâu nay mỗi khi có hứng, tôi toan mở ngâm vịnh thì cái hồn thơ của tôi lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Ðỗ, ông Bạch, ông Tô choán trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư thì cụ Tiên Ðiền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói lại nói không được, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào chưa nói, mình muốn nói ra lại bị những niêm luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ thật là dễ ức.
Việc làm của Phan Khôi không vì danh, không vì hiếu sự mà chính vì tình cảnh thúc bách, ý tưởng duy tân, tìm một mảnh đất mới cho thế hệ trẻ. Phan Khôi kêu lên:Duy tân đi? Cải lương đi?
Lưu Trọng Lư là người theo chân Phan Khôi. Lưu Trọng lư được kể vào lớp chiến sĩ xung kích trên mặt trận khẩu chiến và bút chiến.
Thơ thách họa các cụ đồ
Ðôi lời nhắn nhủ bạn làng nho
Thơ thẩn, thẩn thơ, khéo thẫn thờ
Con cóc Nghè Huỳnh đuôi cọc lóc
Nàng thơ Ấm Hiếu mũi thò lò
Chai to, chai nhỏ con cầy béo
Câu thánh, câu thần đĩa mực khô
Nắn nót miễn sao lên bốn ghế
Chẳng thơ thì cũng cóc cần thơ
Nữ sĩ Nguyễn Thị Kiêm đăng đàn diễn thuyết lên án thơ cũ: thơ Ðường luật một lối thơ rất bó buộc về từng câu, từng chữ, chặt chịa về luật bằng trắc, về phép đối câu đối chữ. Vì khuôn khổ luật pháp phiền phức nên người làm thơ phải đứng ở trong một vị trí eo hẹp lúng túng…
Hồ Văn Hảo tuy không bút chiến khẩu chiến gay gắt với phái thơ cũ nhưng ông có hai bài thơ góp vào tiếng nói của thơ mới, đó là bài Con nhà thất nghiệp và bài Tình thâm
_ Những ý kiến bênh vực thơ cũ:
Trước sự tấn công của phe thơ mới, phe thơ cũ cũng phản kích lại một cách quyết liệt. Các nhà thơ cũ cho rằng thơ mới không tao nhã. Bài thơ đăng trên An Nam tạp chí số 6:
Ông Tản Ðà nhắn bạn Phong hóa
Mấy lời nhắn bảo anh Phong hóa
Báo đến như anh thật láo quá
Từ tháng đến năm không ngớt mồm
Sang năm Quý Dậu phải kiếm khóa…
Năm 1933 ông Tân Việt trên báo Công luận bênh vực thơ cũ (diễn đàn hội khuyến học Sài Gòn)
Ông Nguyễn Văn Hạnh diễn thuyết tại hội khuyến học Sài Gòn tranh luận với Nguyễn Thị Kiêm.
Năm 1933-văn học tạp chí Hà Nội chê thơ mới không biết cân nhắc chữ dùng.
Năm 1934 trên Tạp chí Văn Học, ông Ðào Duy Tư phản đối bài diễn thuyết của Lưu Trọng Lư
Năm 1935 hai ông Tường Vân, Phi Vân cho xuất bản tập thơ cũ Những bông hoa trái mùa chống lại thơ mới.
Năm 1936 ông Thái Phĩ công kích thơ mới trên báo tin văn Hà Nội.
Năm 1941 ông Huỳnh Thúc Kháng sau nhiều lần bị chỉ trích, nhất quyết khẳng định thơ mới đến ngày mạt vận.
Suốt những năm 1933-1935, những cuộc khẩu chiến và bút chiến giữa hai phe mới cũ nhưng khi Thế Lữ xuất hiện như một đòn dứt điểm.
Tản Ðà hình như đặt mình vào vòng, mặc dù bị báo Phong Hóa thỉnh thoảng lôi ra để châm biếm. Tuy nhiên ngày 30-11 năm 1934 Tản Ðà có viết một bài in trên tiểu thuyết thứ Bảy, nhan đề Phong trào thơ mới. Ông trình bày với mọi người những bài thơ ông làm cách đây 20 năm. Ông cũng làm thơ tự do như bài Tống Biệt. Tản Ðà dùng lời lẽ ôn hòa, cảnh tỉnh lớp người mới, cái mà lớp người sau gọi là mới chính Tản Ðà đã trải qua. Chỉ có khác ở nội dung.
b. Những nhà thơ tiêu biểu trong thời kì 1932-1935
_ Lưu Trọng Lư:
Lưu Trọng Lư là người diễn thuyết hăng hái nhất bênh vực thơ mới và là người có công khai sinh ra thơ mới. Bài thơ Ðường đời và Vắng khách thơ là những bài thơ mới của Lưu Trọng Lư xuất hiện sau bài Tình già của Phan Khôi.
Bài thơ của Lưu Trọng Lư sau này đưa vào tập Tiếng thu đổi tên là Xuân về :
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giác mộ
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ
Chàng ngâm thơ
Vườn sau oanh giục giã
Nhìn ra hoa đua nở
Dừng tay tôi kêu chàng…
Này, này! Bạn! Xuân sang
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng, long vồn vã…
Rồi ngày lại ngày
Sắc màu: phai
Lá cành: rụng
Ba gian: trống
Xuân đi
Chàng cũng đi
Năm nay xuân còn trở lại
Người xưa không thấy tới
Xuân về.
Thơ Lưu Trọng Lư là một lối thơ quen thuộc của dân tộc, một chút xưa của thơ Ðường. Lưu Trọng Lư đến với thơ bằng cả tâm hồn sầu mộng của mình. Trong thơ ông, mọi hình ảnh mọi âm thanh của cuộc sống đều được vào thế giới thơ mộng. Chỉ một làn nắng mới, một tiếng chim hót cũng đưa thi sĩ trở về dĩ vãng, thế giới của ký niệm buồn thương. Lưu Trọng Lư rất nhạy cảm với những rung động mơ hồ của thiên nhiên, của nội tâm. Từ tiếng thổn thức của trăng mờ: Còn đâu ánh trăng mờ- Mơ trên làn tóc rối., đến con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu cũng đem lại một cảm giác buồn man mác trong thơ ông. Hay đôi mắt buồn của người đẹp bên cửa sổ: Ðôi mắt em lặng buồn . Nhìn thôi mà chẳng nói.. Tất cả đều chập chờn như trong mơ và bàng bạc một mối sầu hoài cảm. Lưu trọng Lư hầu hết diễn tả những cái buồn bên trong. Tiếng thổn thức của mùa thu, cái rạo rực trong lòng người cô phụ không nghe được từ bên ngoài. Bài Tiếng thu là bài thơ nổi tiếng của Lưu Trọng Lư. Bài thơ không chỉ tạo hình, tạo dáng cho mắt thấy tai nghe mà cho tâm hồn, cho cảm xúc, cho tưởng tượng. Lưu Trọng Lư viết về tình yêu như con tàu tách bến :
Em ngồi bên song cưả
Anh đứng tựa tường hoa
Nhìn nhau mà lệ ướt
Một ngày một cách xa.
Thơ Lưu Trọng Lư diễn tả cái tôi đang say sưa thoát li vào mộng tưởng.
_ Thế Lữ:
Thế Lữ xuất hiện như một vận động viên quyền anh nặng kí, điểm đúng huyệt, dứt điểm cuộc giao tranh giữa thơ mới và thơ cũ. Trên văn đàn, Thế Lữ không bàn về thơ mới, không bênh vực thơ mới, không bút chiến khẩu chiến. Thế Lữ chỉ lặng lẽ điềm nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan rã (Thi phẩmMấy vần thơ).
Ông là người có công trong việc xây dựng nền thơ mới. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là người làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy vào tương lai của thơ mới. Thế Lữ xuất hiện được Hoài Thanh đánh giá rất cao: Ðộ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam.
Thơ Thế Lữ tiêu biểu cho tiếng nói của cái tôi trong thơ mới thời kì đầu. Nó hăng hái tự khẳng định, vẫn ít nhiều còn dè dặt, tình yêu còn mức độ, chứ chưa buông tuồng, ích kỉ trắng trợn như về sau. Thế Lữ nói đúng cái tôi trong thơ mới khi kêu gọi yêu đi, yêu mãi bạn lòng ơi.
Thơ Thế Lữ thời kì đầu say sưa thoát li hiện thực. Nhưng những sự kiện lớn lao của lịch sử còn dư vang trong tâm trí. Thơ Thế Lữ có ấp ủ một tinh thần dân tộc, một khát khao tự do. Thời kì đầu tinh thần dân tộc đó chính là tiếng vọng lại xã xôi của phong trào (1930-1931).
Thơ Thế Lữ diễn tả nỗi buồn. Thế Lữ đưa vào thơ Việt Nam cái buồn vô cớ, cái buồn thi vị, lúc đó cái buồn đang là cái mốt. Cái buồn trở thành một thứ trang sức của trí thức tiểu tư sản. Cái buồn bàn bạc khắp nơi, cả trong giấc mộng, trong cảnh tiên:
Tiếng đưa hiu hắt bên sông
Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn…
(Tiếng sáo thiên thai)
Thơ mới nói chung là buồn. Cái buồn nhiều khi lẫn lộn với cái bi quan yếu đuối. Xưa, nay những áng thơ hay trong quá khứ hầu hết là buồn: Thơ Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều… đều buồn. Những câu ca dao hay nhất là những câu buồn. Nhà phê bình văn học Bielinxki: cái buồn chính là làm nên sự hấp dẫn của thơ ca…
Bi quan là buồn, nhưng buồn không nhất thiết là bi quan. Cuộc đời có lúc vui, lúc buồn, trước kia cũng thế và bây giờ cũng thế, chỉ có tỉ lệ thay đổi. Trước sự hi sinh của đồng bào, đồng chí không thể không buồn. Nếu bi quan thì không tin vào một cái gì, chán nản, từ bỏ sự sống, bàng quang trước sự phải trái, đúng sai, tốt xấu, không thiết tha với bất cứ cái gì.
Cái buồn cũng có năm bảy đường, cái buồn của Thế Lữ là cái buồn mệt mỏi bất lực. Cái buồn Xa vắng mênh mông, nước lặng mây ngừng chưa phải là cái buồn thê thảm hãi hùng như sau này.
2. Thời kì 1936-1939:
Thời kì này xuất hiện nhà thơ Xuân Diệu trường hợp mới nhất trong các nhà thơ mới (thi nhân Việt Nam). Xuân Diệu xuất hiện chiếm hẳn dịa vị độc tôn trên thi đàn. Tiếng thơ của Xuân Diệu như luồng gió mát thổi tâm hồn trẻ: Xuân Diệu là nhà thơ đầu tiên của Việt Nam đã áp dụng thuyết hiện sinh vào thi ca (Nguyễn Tấn Long-Việt Nam thi nhân tiền chiến).
Xuân Diệu vừa xuất hiện gây dư luận sôi nổi. Phái thơ cũ coi là khả ố cần phải tiêu diệt vì nó quá sỗ sàng trắng trợn. Người ta chê nào là ngây ngô nào là tây quá thơ đâu lại có thứ thơ quái gỡ như vậy. Người ta đả kích cái tư tưởng kém lành mạnh.
Xuân Diệu làm thơ quá mới mẻ đối với nền học thuật Việt Nam từ trưóc đến nay. Tư tưởng của ông thường quá táo bạo không ngại ngùng e dè, chỉ thích nói lên những gì mình cần nóiï mà thôi.
Trong bầu không khí sôi nổi giữa tân và cựu, Hoài Thanh thoạt tiên cũng có vẻ hoài nghi đối với sự xuất hiện của Xuân Diệu song Hoài Thanh cũng khẳng định được vị trí của Xuân Diệu trong văn đàn thi ca: ngay lời văn Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi, Xuân Diệu viết tựa trẻ con học nói, hay nười ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ ấy chính là Xuân Diệu hơn người. Dòng tư tưởng quá sôi nổi, không thể đi theo đường có sẵn. Ý văn xô đẩy, khiến câu văn phải lung lay.
Nhà phê bình Hoài Thanh một lần nữa khẳng định vững chắc chỗ đứng của Xuân Diệu trong phong trào thơ mới: Thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt cái tình cố hữu của nòi giống. Và chăng tinh thần một nòi giống có cần gì phải bất di bất dịch. Sao lại bắt ngày mai phải giống hệt ngày hôm qua? Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này.
Nhà văn Vũ Ngọc Phan nhận xét về thơ Xuân Diệu: Bây giờ người ta đã hiểu thơ Xuân Diệu. Người ta thấy thơ Xuân Diệu đằm thắm, nồng nàn nhất trong tất cả thơ mới. Cả ý lẫn lời đều tha thiết, làm cho người thanh niên ngây ngất.
_ Thời kì này xuất hiện nhà thơ Nguyễn Bính: nhà thơ chân quê
_ Huy Cận: dồn cả cái buồn thời đại vào thơ… (Hoài Thanh)
3. Thời kì 1940- 1942:
_ Do đại chiến thế giới lần hai, xã hội Việt Nam bước vào những năm khủng hoảng tột độ. Văn học công khai diễn ra hỗn loạn. Cái Tôi trong thơ mới rút đến sợi tơ cuối cùng. Mỗi nhà thơ thoát li một cách, và càng thoát li lại càng lạc lối. Từ 1940 về sau thơ mới càng đi xa con đường đấu tranh cách mạng.
_ Thơ mới lắm xu hướng, nhiều màu sắc đều là nhiều hình thức khác nhau của sự khủng hoảng.
+ Nhóm Dạ Ðài: Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Ðinh Hùng
+ Nhóm Xuân Thu Nhã Tập: một lối thơ khó hiểu (Hũ nút, tắc tị), gồm các thành viên: nhà thơ Nguyễn Xuân Sách, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Ðỗ Cung, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Lương Ngọc, Ðoàn Phú Tứ
+ Xu hướng thoát li siêu thoát triết lí thần bí tiêu biểu là Huy Cận với Vũ trụ ca, Kinh cầu tự, Chế Lan Viên với Vầng sao
III. NGHỆ THUẬT CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI LÃNG MẠN |
1. Kế thừa truyền thống thơ cổ điển:
_ Kế thừa truyền thống thơ Ðường: bằng , trắc, đối ý, đối chữ. Ðặc biệt kế thừa lối thơ Cổ phong.
_ Thể thơ lục bát được nâng niu. Nhà thơ Huy Cận, Nguyễn Bính mang đến cho lục bát một khuôn khổ mới
2. Sự cách tân:
_ Cách tân về gieo vần
+ Loại vần liên tiếp:
Sông Hồng ôm ấp nóc nhà tranh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh…
+ Vần ôm nhau:
Lặng lẽ trên đường lá rụng mưa bay.
Như khêu gợi nỗi nhớ nhung thương tiếc
Những cảnh với những người đã chết
Tự bao giờ còn phảng phất đâu đây
+ Vần gián cách:
Gió man mác bờ tre rung tiếng sẻ
Trời hồng hồng đáy nước lắng son mây
Làn khói xám từ nóc nhà lặng lẽ
Vươn mình lên như tỉnh giấc mê say
+ Vần hỗn hợp
+ Vần lưng:
Buồn gieo theo gió veo hồ
Ðèo cao quán chật bến đò lau thưa
_ Sự cách tân về nhạc điệu:
+ Cách phối âm đặc biệt là phụ âm vang: âm a, an, ang, ưng, …
+ Thơ mới thường nghiêng về thanh bằng
+ Thơ mới vận dụng lối ngắt nhưng linh hoạt, độc đáo 4/1/2:
Ðàn ghê như nước/lạnh/trời ơi! (Nguyệt cầm-Xuân Diệu)
3. Các nhà thơ mới vận dụng thủ pháp tu từ:
_ Giàu hình tượng, gợi cảm.
_ Lối nhân cách hóa.
_ Lối ví von.
4. Những phong cách trong phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa:
Tuy cùng chung một phương pháp sáng tác song các nhà thơ mới mỗi người có một phong cách sáng tác khác nhau.
loigiaihay.com
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 12 - Xem ngay
-
Những giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ lãng mạn qua một số tác phẩm thời kì 1930-1945
Có lúc do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan, người ta đã quá dè dặt, nếu không nói là quá khe khắt, trong việc xác nhận giá trị của thơ lãng mạn (1930-1945). Nhưng cuối cùng, bằng giá trị của chính nó, sự tác động lâu bền và tốt đẹp của nó đối với liên tục nhiều thế hệ người đọc, thơ lãng mạn đã xác định cho mình một vị trí xứng đáng trong nền văn học nước nhà.
-
Quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh
HCM xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp CM,là công cụ hỗ trợ chiến đấu:Văn chương trong thời đại CM phải có chất thép “Nay ở trong thơ nên có thép/Nhàthơ cũng phải biết xung phong”.
-
Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa, nhưng mê muội thần tượng là một thảm họa
I. Mở bài Trong cuộc sống của mỗi người, ai cũng có cho mình một thần tượng để ước mơ và vươn tới. Thần tượng ấy có thể là một doanh nhân thành đạt, một ca nhạc sĩ, hay chỉ là người mẹ, người cha trong gia đình.
-
Khái quát văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1954
Trong quá trình 30 năm phát triển của văn học cách mạng (1945-1975), giai đoạn 1945-1954 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ðây vừa là thời kỳ mở đầu, đắp nền cho văn học mới vừa là bước chuyển tiếp lịch sử ghi nhận nhiều thay đổi triệt để và sâu sắc, từ quan niệm nghệ thuật cho tới thực tế sáng tác.
-
Trình bày những nét chính trong sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu
Xuân Diệu (1916-1985) – một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất có giá trị. Hơn năm mươi năm lao động miệt mài trong thế giới nghệ thuật ấy, con người và thơ văn của Xuân Diệu đã có sự chuyển biến rõ nét từ một nhà thơ lãng mạn thành nhà thơ cách mạng