Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy. ngữ văn lớp 9Cát trắng và Ánh trăng là hai tập thơ của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Một hồn thơ tươi trẻ tỏa mát bóng tre, như con sóng vỗ dòng sông thơ ấu phảng phất hương vị đồng quê: Quảng cáo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
Dàn ý I. Mở bài: giới thiệu tác giả Nguyễn Duy, tác phẩm Ánh trăng. II. Thân bài: phân tích chi tiết tác phẩm 1. Vầng trăng trong quá khứ - Hồi nhỏ sống với đồng, với sông, với bể -> Điệp từ “với” được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những kí ức tươi đẹp của tuổi thơ. - “Hồi chiến tranh ở rừng” – những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh,“vầng trăng thành tri kỉ” -> Nghệ thuật nhân hóa -> trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính – nhà thơ. -> Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng cảm nhận cái giá buốt nơi “Rừng hoang sương muối” (Đồng chí), cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cung xao xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê… - “Trần trụi với thiên nhiên/ hồn nhiên như cây cỏ” -> Vầng trăng trong quá khứ mới đẹp làm sao. -> phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật “trần trụi với thiên nhiên”, so sánh độc đáo “hồn thiên như cây cỏ” -> cho ta thấy rõ hơn vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng. Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ: vô tư, hồn nhiên, trong sáng. - “không…quên…vầng trăng tình nghĩa” -> thể hiện tình cảm thắm thiết với vầng trăng. =>Vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành,cả trong hạnh phúc và gian lao. =>Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu; của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi mát, thơ mộng. =>Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thành “vầng trăng tình nghĩa” biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình. 2.Vầng trăng trong hiện tại - Hoàn cảnh sống: đất nước hòa bình. -> Hoàn cảnh sống thay đổi: xa rời cuộc sống giản dị của quá khứ, con người được sống sung túc trong “ánh điện cửa gương” - cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại,xa rời thiên nhiên. - “Vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”: + Vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó. + Biện pháp nhân hóa, so sánh-> “Vầng trăng tình nghĩa” trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng vẫn “đi qua ngõ”, vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa, nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình. Vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết. -> Rõ ràng, khi thay đổi hoàn cảnh, con người có thể dễ dàng quên đi quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm.Nói chuyện quên nhớ ấy, nhà thơ đã phản ánh một sự thực trong xã hội thời hiện đại. - Con người gặp lại vầng trăng trong một tình huống bất ngờ: + Tình huống: mất điện, phòng tối om. + “Vội bật tung”: vội vàng, khẩntrương -> bắt gặp vầng trăng. -> Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài. Chính cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ -> Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bối rối, gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm nghĩa tình. 3. Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng - Từ “mặt” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người – trăng và người cùng đối diện đàm tâm. - Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính. - Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng - biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng,những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm. -> Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”, đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc. - Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. - Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người. III. Kết bài: Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Bài mẫu 1 Cát trắng và Ánh trăng là hai tập thơ của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Một hồn thơ tươi trẻ tỏa mát bóng tre, như con sóng vỗ dòng sông thơ ấu phảng phất hương vị đồng quê: vầng trăng thành tri kỉ "Tri kỉ": biết người như biết mình; bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ - người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng "gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm" (Hồ Chí Minh). Giữa rừng khuya sương muối, người chiến sĩ đứng chờ giặc tới "đầu súng trăng treo" (Chính Hữu). Nẻo đường hành quân của người chiến sĩ nhiều đêm đã trở thành "nẻo đường trăng dát vàng". Trăng đã chia sẻ ngọt bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận với người lính tiền phương. Đất nước trải qua những năm dài máu lửa, trăng với anh bộ đội đã vượt lên mọi tàn phá hủy diệt của bom đạn quân thù: quen ánh điện, cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối. Biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách, tự vươn lên, hướng tâm hồn về ánh sáng và cái cao cả. Không dao lo búa lớn, không đại ngôn, mà trái lại, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày lâm sự, nhà thơ đang trò chuyện với mình. Chất trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành. Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.
Bài mẫu 2 Khi hòa bình lập lại, xã hội chuyển mình theo dòng chảy của thời gian thì con người cũng thay đổi theo. Nhưng sự thay đổi đó cũng nhiều khi đem lại sự mất mát, mất dần những gì đáng quý mà họ vốn có. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một lời tâm sự như thơ. Tác giả muốn qua hình ảnh ánh trăng làm thức dậy trong tâm hồn người lính lòng trung hiếu, trọn vẹn với nhân dân. Bằng nghệ thuật nhân hóa, Nguyễn Duy đã khắc họa vẻ đẹp tình nghĩa, thủy chung của trăng với đời lính. Tác giả gắn bó với trăng trong những năm dài kháng chiến khi còn là người lính: Hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ Cuộc sống trong rừng với biết bao gian khổ, khó khăn nhưng trăng đã đến với người lính bằng một tình cảm chân thành, không chút ngần ngại: Tình bạn giữa trăng và người lính gắn bó đằm thắm, họ là đôi bạn “tri kỉ”. Tác giả nhân hóa trăng như một con người thực sự, trăng không chỉ có hồn mà trăng còn mang vẻ hoang sơ mộc mạc: Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ Trăng và người lính đến với nhau bằng sự đồng cảm. Có lẽ chính cảnh rừng buồn bã, quạnh hiu đã khiến cho trăng và người đều cần tình cảm, khiến cho trăng và người xích lại gần nhau. Dường như cuộc đời của người anh không còn lanh lẽo nữa, nó được sưởi ấm trong tình thương yêu, tình cảm bạn bè. Thế nhưng, nếu như những dòng thơ đầu khiến cho ta thấy tình bạn ấy sẽ mãi mãi bền vững thì những dòng thơ sau lại càng làm cho ta ngỡ ngàng. Nhà thơ thật tài tình khi viết hai câu thợ thật đối lập: ngỡ không bao giờ quên đối lập với: như người dưng qua đường Tại sao lại có sự đổi thay phũ phàng ấy? Tại sao trăng đã được coi là "tri kỉ” lại trở thành “người dưng”? Tình cảm xưa đã bị chia lìa từ bao giờ vậy? Phải chăng từ ngày người lính đi ra khỏi cuộc chiến tranh, trở về sống với thành phố đầy đủ tiện nghi? Người lính đã quen với vật chất cao sang “ánh điện cửa gương” nên lãng quên trăng. Anh quên đi những ngày gian khổ, quên đi tình cảm chân thành, quên đi quá khứ ác liệt nhưng cao đẹp tình người. Chính sự lãng quên đáng trách ấy đã phá vỡ tình bạn. Đúng là những câu thơ đối lập trước sau đã làm tăng vị chua xót bất ngờ! Người lính như vậy còn trăng thì sao? Lại một sự bất ngờ khác hiện ra trong bài thơ. Bị lãng quên nhưng trăng không hề quên bạn. Trăng vẫn đến với bạn bằng một tình cảm tràn đầy, không mảy may sứt mẻ. Người lính chỉ nhận ra điều đó khi anh “bật tung cánh cửa sổ”, chỉ là một phản xạ tự nhiên khi mất điện, nhưng anh đã bất ngờ gặp lại được vầng trăng: Đột ngột vầng trăng tròn Không đơn thuần nói về hình ảnh trăng tròn, nhà thơ còn muốn nói đến sự tràn đầy về tình của trăng, trăng vẫn thủy chung với người bạn năm xưa. Tình cảm mà trăng dành cho người lính chân thành ở chỗ: trăng không hề đòi hỏi một điều gì cả, trăng chỉ biết yêu, biết thương hết về mình. Con người từng quay lưng lại với quá khứ nhưng trăng đã đánh thức tâm hồn họ: Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng, là bể như là sông, là rừng Ánh trăng đánh thức lại nhưng kỉ niệm quá khứ, đánh thức lại tình bạn năm xưa, đánh thức những con người đã lãng quên. Giờ đây hai người bạn lại thực sự bình đẳng: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Hai gương mặt: gương mặt người lính và gương mặt trăng đang nhìn thẳng vào nhau, đang tìm lại sự đồng cảm. Tình nghĩa thủy chung của trăng đã khiến người lính phải xúc động: “Có cái gì rưng rưng”. Anh đang hối hận hay đang nhớ đến những kỉ niệm xưa? Trăng tràn đầy tình người, đáng tiếc thay, cái tình đáng quý ấy con người lại bỏ rơi. Nhưng điều làm ta xúc động hơn là trăng không chỉ thủy chung mà trăng còn rất cao thượng, vị tha: Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc Không nói lời nào cả, trăng vẫn khoan dung, tha thứ cho người bạn đã lạnh lùng với mình. Trăng không trách móc, không oán hờn, nhưng đôi khi sự im lặng lại chính là sự trừng phạt nặng nề nhất. Chính vì thế, người lính đã băn khoăn, day dứt biết chừng nào: đủ cho ta giật mình Không một tòa án nào xét xử sự phản bội trong tình bạn, chỉ duy có tòa án của lương tâm. Sự cao đẹp của trăng khiến người lính giật mình để nhìn lại chính mình, để nhận ra mình đã lãng quên một phần quan trọng của cuộc đời: quá khứ đẹp của đời mình và quá khứ đáng tự hào của dân tộc. Con người ta không thể sống thiếu quá khứ, không thể không biết đứng trên quá khứ để vươn tới tương lai. Đó mới thật là cách sống của một con người. Thông qua sự thủy chung, cao thượng của ánh trăng, Nguyễn Duy đã nói đến chính tình cảm của nhân dân trong thời kì kháng chiến. Những con người mộc mạc, vật chất của họ tuy nghèo nhưng tâm hồn họ không hề nghèo nàn. Họ đã bao bọc, đã chở che cho người lính suốt những năm dài gian khổ bằng cả một tình cảm đầy tình nghĩa thủy chung son sắt. Ánh trăng chính là biểu tượng đẹp đẽ về họ. Nguyễn Duy là một nhà thơ có phong cách viết rất gần gũi với người đọc và lời thơ mang tính triết lí, giản dị nhưng cũng rất sâu xa. Bài thơ đã khép lại nhưng vẫn mở ra cho chúng ta biết bao trăn trở, suy nghĩ về cách sống làm người. Có lẽ bởi vậy mà bài thơ "Ánh trăng” vẫn luôn trụ vững trong lòng người đọc, neo lại với thời gian. Bài mẫu 3 Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của ông đã từng đoạt giải hưởng báo Văn nghệ. “Ánh trăng” cũng là một trong những bài thơ được nhiều độc giả yêu thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ. Qua bài thơ, tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm về một lẽ sống cao quý trong cuộc đời của mỗi con người. Khổ thơ mở đầu như những lời tự sự ghi lại những dòng hồi ức của tác giả về quá khứ: Trăng có vẻ đẹp bình dị vô cùng, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng vẻ đẹp thiên nhiên nên trăng hòa vào thiên nhiên, hòa vào cây cỏ. Hay nhà thơ còn muốn diễn tả sự gần gũi giữa mình với thiên nhiên, gần gũi với trăng: “Trần trụi với thiên nhiên”. Tâm hồn người chiến sĩ lúc ấy cũng “hồn nhiên” vô tư đến độ “như cây cỏ”. Vầng trăng “tri kỷ” đã đẹp rồi mà “vầng trăng tình nghĩa” còn cao quý biết nhường nào: Khổ thơ này có kết cấu đối lập, một bên là “ánh điện, cửa gương” sáng lòa, lộng lẫy, rực rỡ và một bên là “ánh trăng” dịu ngọt, thanh nhẹ. Đặt những hình ảnh có vẻ đối lập bên nhau, Nguyễn Duy muốn bộc lộ kín đáo một lời tự thú chân thành, nghiêm khắc. Hình ảnh “vầng trăng” còn được nhà thơ nhìn lại “tròn vành vạnh” thật là đẹp, một cái đẹp viên mãn không hề bị khiếm khuyết. Cái ánh sáng tròn đầy hay cũng là cái đẹp của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu mặc cho ai kia thay đổi, vô tình. Và cao quý biết bao bởi vì “vầng trăng” ngày nào còn tỏ ra bao dung độ lượng: “kể chi người vô tình”. Nhưng chính ánh trăng vô ngôn, không một lời trách cứ ấy đã khiến cho “người vô tình” thấy rõ cái khiếm khuyết của bản thân mà không khỏi “giật mình” tỉnh ngộ: Loigiaihay.com
Quảng cáo
|