So sánh cách nhìn người nông dân của hai nhân vật Hoàng và Độ trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam CaoNam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915, mất năm 1951 một nhà văn hiện thực xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Xuất thân từ tỉnh Hà Nam, nhà văn này đã từng viết rất thành công về cuộc sống của người trí thức và người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng tám Quảng cáo
Sau Cách mạng tháng tám, ông lại tự rèn luyện mình, dứt khoát từ bỏ lối sống cũ để quyết tâm đi theo cách mạng. “Đôi mắt”, được Nam Cao sáng tác tết 1948, thời điểm nhận đường của giới văn nghệ sĩ, thể hiện đầy đủ phong cách của ông sau Cách mạng tháng tám. Ban đầu Nam Cao đặt tựa là “Tiên sử thằng Tào Tháo”, sau đổi là “Đôi mắt” vì ông nhận thấy vấn đề quan trọng hơn hết lúc bấy giờ là cách nhìn của giới văn nghệ sĩ. Trong tác phẩm hai nhân vật chính, Hoàng và Độ, có cách nhìn hoàn toàn trái ngược nhau, mới nổi bật là cách nhìn về người nông dân, đã phần nào nói lên vấn đề quan điểm, lập trường của Nam Cao. Hoàng và Độ là hai nhà văn, Hoàng là nhà văn anh, còn Độ thuộc lớp đàn em. Cả hai có cách sống, cách suy nghĩ và cách nhìn đời, nhìn người đối lập hẳn nhau, đặc biệt là khi nhìn người nông dân. Trong mắt Hoàng những người nông dân nghèo khổ ấy đầy những tính xấu: “Toàn là những người ngu đần, lỗ mãng, ích kỉ, tham lam, bần tiện cả”. Dường như với Hoàng mọi sự xấu xa của con người đã tập trung về cả người nông dân. Anh nhìn thấy họ là một lũ lố lăng: “Cái ông thanh niên, các bà phụ nữ lại còn nhố nhăng”, anh phiền vì sự “nhăng xị” của họ: “Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Không chỉ nhố nhăng họ còn lại hay nói chữ mở miệng ra “đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo”. Hoàng cho đó là chuyện thật nực cười. Anh không thấy được sự cố gắng của người nông dân kém hiểu biết nhưng lại rất đỗi yêu nước. Thấy người nông dân đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn”, anh cho đó là con vẹt biết nói, dây dưa, lôi thôi, mồm nói vội lắm vậy mà đọc cho anh nghe “cả một bài dài đến năm trang giấy”. Anh lại càng phiến diện hơn khi nhìn người nói dân toàn là những người tò mò, tọc mạch: “Anh chỉ giết một con gà, ngày mai cả làng này đã biết”. Hoàng khăng khăng với Độ: “Ngày mai, chuyện anh đến chơi tôi thế nào cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh gầy béo thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên trái”. Có thể đó là sự thật, bởi Hoàng đã thề không hề bịa chuyện, và người đọc cũng biết người nông dân có tính xấu đó. Nhưng Hoàng đã nói quá, đã thổi phồng lên khiến người nông dân trở nên đầy xấu xa. Anh không hề có cái nhìn thông cảm. Bởi thế, Hoàng mới cho người nông dân mới thật độc ác, tàn nhẫn = chị dâu đẻ mà em bắt ra cái lều ngoài vườn. Hoàng không hề hay giả vờ không biết những tập tục kiêng kị của người nông dân? Tất cả những tính xấu của người nông dân hiện lên trong mắt Hoàng, lại càng trở nên xấu xa. Hoàng không nhận ra đó là hoàn cảnh nghèo đói đã biến hóa người nông dân, mà anh qui tất cả về bản chất. Anh bêu rếu, nói xấu, mỉa mai chua chát nhưng người nông dân lương thiện đã cưu mang anh. Lối sống vị kỉ, xa rời quần chúng đã đem đến cho Hoàng cách nhìn lệch lạc, một chiều, một phía. Anh thấy người nông dân “quả là không chịu được, không chịu được”. Anh khinh bỉ họ đến cùng cực: “Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài, theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối”. Là nhà văn đáng lẽ Hoàng phải có tấm lòng nhân ái, cảm thông, nhưng đằng này anh lại hiện lên như một kẻ tàn nhẫn, ích kỉ. Bởi không chỉ là nhà văn, Hoàng là một “tay chợ đen tài tình” sống phong lưu giữa cảnh nghèo đói của dân tộc, giữa lúc những người nông dân nghèo vật chất nhưng giàu tinh thần cũng lăn xả thân mình đóng góp cho đất nước. Hoàng không nhìn thấy cái nguyên có thật đẹp đẽ bên trong, mà chỉ thấy cái ngố bên ngoài và đánh giá họ qua một cái nhìn phiến diện không nên có ở một nhà văn. Chính vì không hề có cái tâm, lòng nhân ái mà Hoàng đã chỉ thấy những gì xấu xa của người nông dân. Hoàng tiêu biểu cho lớp nhà văn ích kỉ, sai lệch về cách nhìn, về thái độ đối với người nông dân và cuộc kháng chiến lúc bấy giờ. Trái hẳn với Hoàng, Độ lại có cái nhìn đầy cảm thông đối với người nông dân. Anh nhận Độ nhận ra họ là những con người rất giàu lòng yêu nước, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc: “Vô Độ biết người nông dân yêu nước lắm, vì thế, cùng một sự việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài “ba gia đoạn”. Độ không cho anh ta là con vẹt biết nói, mà Độ thấy được bó tre anh thanh niên vác đi để ngăn quân thù. Tấm lòng nhân hậu, đầy cảm thông của Độ đã nhìn thấu một trái tim yêu nước bên trong “cái ngố bề ngoài”. Nhan đề “Đôi mắt” giản dị nhưng rất gợi mở, rất đặc sắc đã thâu tóm được giá trị tư tưởng của cả bài. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở cách nhìn về người nông dân của Hoàng và Độ, mà còn mở rộng ra là cách nhìn đời và người cho mọi người. Với tác phẩm này, đặc biệt qua hai cách nhìn tương phản, đối lập. Nam Cao đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh những nhà văn ích kỉ, chỉ quan tâm đến bản thân mình. Đồng thời ông cũng lên án những ai có cái nhìn phiến diện một chiều lệch lạc, biểu dương cái nhìn đúng đắn, toàn diện. Ông quan niệm nhà văn trước hết phải có tấm lòng để xác định đúng chổ, đúng lập trường. Từ đó có cách nhìn đúng mà viết nên tác phẩm hay, có ích cho đất nước, nhân dân. Nếu không, dù có tài giỏi đến mấy cũng chỉ là kẻ vô dụng, làm trò cười cho mọi người và tác phẩm dù có hay đến mấy cũng sẽ không được đón nhận. Loigiaihay.com Quảng cáo
|