Hiểu biết về hai tác giả Nam Cao, Nguyễn Tuân và các tác phẩm của họ - Ngữ Văn 12

Nói về tính độc đáo của phong cách sáng tác văn học, có ý kiên cho rằng: "Nghệ thuật là tĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ, thể hiện trong tác phẩm của mình".

Tổng hợp đề thi giữa kì 2 lớp 12 tất cả các môn

Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh - Sử - Địa - GDCD

Quảng cáo

Đề bài

Nói về tính độc đáo của phong cách sáng tác văn học, có ý kiên cho rằng: "Nghệ thuật là tĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ, thể hiện trong tác phẩm của mình".

Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.

Lời giải chi tiết

 BÀI LÀM

   Trong cuộc sống của chúng ta, có biết bao điều rất khó định nghĩa hoặc định nghĩa một cách chính xác và đầy đủ. Chẳng hạn, bạn sẽ trả lời thế nào có câu hỏi: “Nghệ thuật là gì”?

   “Nghệ thuật là cái đẹp” - câu trả lời đúng nhưng không đủ. Nghệ thuật có khi là những đường nét man dại thô sơ trên những dụng cụ thời cổ đại. Có khi cách tạo ra một nhân vật làm cho mọi người đều khiếp sợ. Vậy có nên chăng khi chúng ta chấp nhận quan điểm “nghệ thuật là tôi, khoa học là chúng ta”. Và cái tôi của nghệ thuật đó biểu hiện như thế nào? Có thể đó là cái tôi duy cảm, cũng có thể là cái tôi mang tính công dân, nhưng trước hết đó phải là cái tôi đầy cá tính mang sắc thái riêng. Trong văn học cũng thế, nói về tính độc đáo trong phong cách sáng tác có ý kiến cho rằng “nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phẩm cùa mình, ý kiến trên rất bao quát nhưng cũng đưa ra được một khía cạnh mà nghệ thuật đòi hỏi: phong cách. Trong văn đàn Việt Nam, nói về phong cách, có lẽ không ai có thể quên được Nam Cao và Nguyễn Tuân, hai tác giả văn xuôi cừ khôi.

   Nhà vật lí học nổi tiếng thế giới Einstein từng nói: “Trước hết là các nghệ sĩ lớn, sau đó mới đến các nhà khoa học, họ xứng đáng được hưởng hơn ai hết sự kính trọng của con người”. Nhà nghệ sĩ chính là người sáng tạo ra nghệ thuật, sáng tạo “cái đẹp để cứu nhân loại". Nghệ thuật là một khái niệm rất trừu tượng nhưng nhiệm vụ mà nghệ thuật phải hoàn thành thật to lớn. Bởi thế người ta đưa ra một ý kiến thật đúng: “nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo”. Thật vậy, tác động vào tâm hồn con người không phải là chuyện dễ, để đột phá vào thế giới thật riêng tư, nhà văn cần dùng một phương tiện cũng phải rất riêng: phong cách độc đáo. Họa sĩ Ruskin đã cho “nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên. Tuy quan điểm đó không hoàn toàn đúng, nhưng theo ý trên ta được cùng là sự mô phỏng nên để tránh nhàm chán, người nghệ sĩ phải thêm vào tác phẩm sự sáng tạo để lại dấu ấn của riêng mình trên từng trang viết. Đấy chính là phong cách, đặc điểm quan trọng nhất để nhận ra nhà văn qua tác phẩm của họ. Truyện ngắn cũng là một lĩnh vực khá lớn của văn học. Truyện ngắn Việi Nam bắt đầu khởi sắc từ những tác phẩm của Tự Lực văn đoàn. Nhưng đến Nam Cao thì loại hình văn học này mới đạt được đình cao của nó. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, văn đàn Việt Nam không thiếu tên những tác giả có tài như Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan... Nhưng hai phong cách nổi bật nhất, theo tôi có lẽ là Nam Cao và Nguyễn Tuân. Không có một người nào đã từng theo dõi văn học nước nhà mà không biết đến dáng đi ngật ngưỡng trong cơn say và gương mặt lằn ngang lằn dọc của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên mà Nam Cao viết năm 1941. Phải nói rằng ở đây là một truyện ngắn thật xuất sắc trong đó Nam Cao đã bộc lộ phong cách của mình rất rõ rệt. Trong giai đoạn văn học 1930 - 1945. Tác phẩm Chí Phèo ra đời khá muộn khi Tắt đèn của Ngô Tất Tố à Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan đã đứng sừng sững trên văn đàn Việt Nam. Vậy mà Chí Phèo không những không bị chìm đi mà còn có phần lấn át hai tác phẩm ra đời trước đó. Tại sao vậy? Nguyên nhân chủ yếu là vì tác phẩm đã có nét mới lại rất lạ và rất riêng. Ông Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét rằng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ tác phẩm của Nam Cao, người ta nhận thấy rằng đây là hình ảnh thê thảm nhất của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến. Không biết Nam Cao đã mất bao nhiêu thời gian để quan sát, tìm hiểu và tạo nên tiếng chửi của Chí Phèo. Tiếng chửi của anh khó chịu lắm, nó thông thốc, đập vào tai người đọc, nó như thách thức cả cuộc đời... Chí Phèo chửi mọi người mà nhưng không chửi ai, không còn biết tại sao mình lại chửi. Chua xót hơn, anh ta lại chửi cả “đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn”, tiếng chửi của Chí Phèo là một sự phủ nhận mạnh mẽ: phủ nhận xã hội, phủ nhận tình cảm thiêng liêng của gia đình mà anh ta không có được, rồi tiến tới phủ nhận cả bản thân mình... Ngòi bút của Nam Cao mang tính khái quát rất cao, qua tiếng chửi của Chí Phèo ta như thấy thấp thoáng dáng dấp của Bình Chức, Năm Thọ, những con người chịu một số phận tương tự như Chí Phèo, bị bần cùng hóa rồi côn đồ hóa và tha hóa.

   Chí Phèo là một nhân vật phải nói là rất lạ với những nhân vật của những tác giả kia. Cùng ở điểm xuất phát là người nông dân chất phác hiền lành như chị Dậu, anh Pha, nhưng nếu hai người này vẫn giữ được phẩm chất của con người thì Chí Phèo lại đánh mất cả nhân hình lẫn nhân tính.

   Lời kể chuyện hấp dẫn cũng là một nét độc đáo trong phong cách của Nam Cao. Kết cấu của truyện Chí Phèo là một chuỗi móc xích của những cơn say liên tiếp, chồng lên nhau: “Bữa đầu về làng đã thấy hắn ngồi ở quán rượu" Và cứ thế câu chuyện diễn tiến trong cơn say triền miên của Chí Phèo. Trong không khí sặc sụa mùi rượu đó, anh ta trở thành tên côn đồ tay sai cho Bá Kiến Rồi gặp Thị Nở, lúc này cơn say lắng xuống nhường chỗ cho cơn say tình yêu. Thế rồi sau khi Thị Nở từ chối, Chí Phèo đã bừng tỉnh trong ý thức để đi đến hành động giết Bá Kiến. Nhưng thật ra mà nói, đến phút cuối đời Chí Phèo vẫn đắm chìm trong cơn say.

   Truyện ngắn Chí Phèo chứng tỏ bút lực mạnh mẽ cũng như phong cách của Nam Cao khá hoàn chỉnh. Có lẽ không ai ngoài Nam Cao có thể tạo cho Chí Phèo một dáng đi ngật ngưỡng, tiếng chửi chối tai mọi người và đôi mắt đỏ ngầu trừng trừng nhìn vào hiện thực để rồi chết ngộp trong hiện thực. Xã hội làng Vũ Đại đen tối không còn lối thoát, cái lò gạch bỏ không là điểm bắt đầu cuộc đời Chí Phèo rồi cũng là có thể là cái nôi đứa con của anh. Rồi chuyện : sẽ xảy ra? Quá khứ lập lại một lần nữa ư? Đó chính là chỗ bế tắc cùa văn học hiện thực phê phán. Nhưng dù sao ta không thể phủ nhận giá trị của truyện Chi Phèo vì qua đó phong cách của Nam Cao đã tỏa sáng, thể hiện được tình thương với cuộc đời.

   Cùng thời với Nam Cao nhưng Nguyễn Tuân là một nhà văn lãng mạn. Tập truyện Vang bóng một thời đã đưa tên tuổi ông vào vị trí rất cao trong văn đàn Việt Nam. Nguyễn Tuân là người nặng lòng hoài cổ, ông lưu luvến và mong vớt vát được những nét đẹp xưa để ấp ủ tâm hồn trong xã hội đương thời. Cũng thi kì lạ vì Nguyễn Tuân hoàn thành tập truyện mang tính cổ xửa ấy ông chưa đầy ba mươi tuổi. Thế mà Vang bóng một thời có giọng văn của một cụ già ngồi ôn lại những năm tháng êm đẹp đã quan trong cuộc đời mình. Chữ người tử tù là một truyện ngắn khá tiêu biểu trong chuỗi những hoài niệm nét đẹp xưa. Hẳn là ta không bao giờ quên được cái ngông ngạo của Huấn Cao, một người tù trước gọng cùm và quan lại. Đó là nét đẹp tỏa sáng nhất man? đậm phong cách của nhà chí sĩ và trong đó cũng mang dấu ấn của phong cách Nguyễn Tuân, thử hỏi có ai nén được sự xúc động khi tìm lại được mái đầu cao ngạo, kiên cường của một nhà nho - hình ảnh trong quá khứ vừa mới đi qua thôi mà đã tưởng như xa lắm. Thạch Lam đã từng nhận xét: Viết về đề tài xưa là một việc tốn nhiều công sức. Phải thực sự yêu mến và muốn giữ lại những vẻ đẹp đã thì mới đủ sức làm sống lại cả một thời xưa cũ. Đúng thế, chuyện xảy ra rồi nhà văn chỉ ghi lại. Thế nhưng nếu không thương tiếc, không muốn sống lại những ngày xưa vang bóng thì không thể tìm thây được những nét đẹp cổ phảng phất trên cặp mày, vẻ quắc thước toát ra từ đôi mắt sâu thăm thẳm bàn tay tài hoa của người tử tù.

   Huân Cao là người viết chữ đẹp nổi tiếng, những đích thực là một nhà nghệ sĩ. Huân Cao biết rõ ràng chữ nghĩa là tinh hoa của thánh hiền, ông coi thường những kẻ khoa tay múa may vì tiền. Chính đức tính này của ông làm cho viên quản ngục ngần ngại mãi, có người tù trong tay nhưng không biết làm cách nào xin được vài con chữ tài hoa. Người ta thường nói văn tức là người. Do vậy hình ảnh của Huân Cảo, ta thấy thoáng hiện một Nguyễn Tuân với vầng tràn cao rộng, với đôi mắt tinh anh, cũng ngẩng cao đầu, chàng đem văn của mình ra làm món hàng mua bán... Người tử từ của Nguyễn Tuân hiện lên trong tác phẩm giống như một anh hùng thời cổ, ông đi trong buổi chiều vang vang tiếng trống thu không, tiếng loa xa xa như vọng về từ quá khứ, không gian tịch nịch và cổ kính. Người tù ấy là một nhà nho tài hoa, vậy mà bất khuất chẳng kém một nghĩa quân trong chiến trận. Lời nói khẳng khái của ông đáp lại viên quản ngục nghe như đầy thách thức: “Ta muốn là nhà ngươi đừng bao giờ bước chân vào đây!”. Đọc đến câu nói của Huân Cao, ta nghe như trong mạch máu ói lên tinh thần của ông cha ngày trước bất khuất, rạch ròi. Chính điều này đã tạo cho Vang bóng một thời một giọng ván khác lạ. Nguyễn Tuân là một nhà văn thuộc trường phái lãng mạng nhưng tác phẩm của ông khác xa so với truyện ngắn của Thạch Lam.

   Huấn Cao có tính ngông thật nhưng không phải vì vậy mà ông không thấy được tấm lòng của viên quản ngục. Thử hỏi làm sao người như Huấn Cao có thể làm ngơ ưước một mong ước rất thanh cao của viên quản ngục. Những dòng chữ vuông vắn đầy cá tính của một người tù có nhân cách vượt trội hơn nhiều so với thững kẻ xử án. Khung cảnh ngoạn mục và cảm động nhất truyện xảy ra trong nhà ngục ẩm ướt. Một người tù gò viết trên mảnh lụa bạch, người thơ lại và viên quản ngục yên lặng, thành kính, ngọn đuốc bừng bừng mù mịt khói chứng tiến ba mái đầu chụm lại nhau. Thực sự Nguyễn Tuân đã tạo nên những hình  ảnh nức lòng người đọc, gian phòng giam mù mịt tối tăm ấy đang tỏa ra ánh sáng của nhân cách con người.

   Người tử tù quên rằng sáng mai mình sẽ bị hành hình, viên quản ngục quên rằng đây là một tù nhân của mình, họ gặp nhau trong tâm hồn thanh cao. Viên quản ngục hướng lên cái đẹp với một mảnh lòng trong sáng, người tử tù cúi xuống nâng tâm hồn ông ta lên bằng tài hoa, nhân cách và khí phách của bản thân mình. Trong Chữ người tử tù nói riêng và Vang bóng một thời nói chung. Nguyễn Tuân đã thể hiện cái tôi duy mĩ, yêu mến và thương tiếc cái đẹp. Tình cảm đó và lối ngông ngạo khác người đã tạo nên một nghệ sĩ Nguyễn Tuân gần như xa lạ với hiện thời nhưng rất gần với quá khứ. Nguyễn Tuân là cầu nối đẹp xưa với ngày nay.

   Trong cùng một thời kì văn học nhưng Nam Cao và Nguyễn Tuân là phong cách rất đặc biệt. Điểm giống nhau của họ là cùng nhìn thấy và bất mãn trước hiện thực xã hội, nhưng cách phản ánh vào tác phẩm lại hoàn toàn khirt nhau. Theo tôn chỉ của văn học phê phán Nam Cao đem vào tác phẩm một hiện thực làm mọi người giật mình có thể có khả năng người nông dẫn sẽ bị côn đồ hóa và trở nên thê thảm như Chí Phèo. Tác phẩm của Nam Cao như hồi chuông báo động mọi người xem lại xã hội mình đang sống. Đó là hồi chuông nảy lòng nhân đạo, nó hướng về con người, hướng về sự cứu vớt con người. Tác phẩm của Nam Cao có thể được đánh giá bằng cầu văn của chính ông: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lứa đôi” Đúng vậy, quan điểm nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao là nghệ thuật vi nhàn sinh.

   Xưa nay người la vẫn thường chỉ trích quan niệm nghệ thuật vì nghệ thuật nhưng có lẽ rằng quan điểm đó rất đúng xét trên khía cạnh tích cực của nó. Người ta nói rằng cái đẹp sẽ cứu vớt nhân loại vậy thì nghệ thuật hướng người tới cái đẹp, tới chân thiện mĩ của cuộc sống, đó chẳng phải là phục vụ con người sao? Truyện ngắn của Nguyễn Tuân về những ngày xưa cũ đem cho ta cái đẹp kiêu hãnh của cha ông. Với cái tôi duy mĩ của mình, ông đã nên một thế giới có màu sắc khác lạ, vừa như quen thuộc vừa như xa vời. Nói cách khác, sáng tác của Nguyễn Tuân trước cách mạng Tháng Tám có “lánh đục về trong”, đi tìm cái đẹp quá khứ để khuây khỏa nỗi buồn hiện Dù sao đi nữa Nam Cao và Nguyễn Tuân vẫn là những phong cách tỏa sáng đặc biệt trên văn đàn Việt Nam trước nãm 1945.

   Một câu hỏi đặt ra là phong cách của một người có thể thay đổi không và thay đổi như thế nào? Theo tôi sự thay đổi là một quy luật của cuộc sống, không có vật gì luôn tồn tại như lúc ban đầu. Cuộc cách mạng tháng Tám 1945 thành công, xã hội đổi khác. Cái không khí xã hội tạo nên những bức xúc cho sáng tác của các nhà văn nay không còn nữa. Phản ánh luận cho rằng những gì thuộc về tâm tư tình cảm của con người đều có thể gọi là hiện thực. Đứng trước sự biển thuyền lớn lao như thế, các nhà văn lại làm ghềnh thách dữ thì mới cảm thấy “khoái chí”. Đó chính là chất tài tử trong văn Nguyễn Tuân. Từ cái ngông ngạo của người hay chữ như Huân Cao chuyển sang cái nghệ thuật của người coi sóng nước sông Đà như ao nhà mình. Đó đây trong tùy bút Sông Đà, ta bắt gặp những mảnh thiên nhiên trong sáng: Một cánh rừng phủ xanh màu xuân mới, sắc mây êm trôi trên sông Đà… Cái u uẩn ngày xưa không còn nữa nhưng nhà văn Nguyễn Tuân vẫn đứng đó với vầng trán cao, mái tóc bạc phơ bay ngược chiều gió với tâm tưởng ngôn ngữ và cuộc sống ngồn ngộn đến mức làm người đọc kinh ngạc.

   “Nghệ thuật là tôi, khoa học là chúng ta”. Câu nói ấy thật đúng trong nghệ thuật - lĩnh vực của cái độc đáo. Người sáng tác tác phẩm văn học là người đem đến cho con người cái đẹp và sự thanh cao, xin được gọi họ là những người tạo ra nghệ thuật. Hai nhà văn Nam Cao và Nguyễn Tuân đã làm nên nét đẹp trong văn học nước ta bằng những phong cách của riêng mình. Trong tác phẩm của họ, ta như lần đầu tiên bắt gặp những gì chợt ẩn, chợt hiện, mới lạ với những gì ta đã biết. Phong cách ấy mãi là những vầng sáng đẹp tạo nên nghệ thuật bất tử.

   Truyện ngắn là một lĩnh vực thú vị của văn học. Nó ghi lại sự việc xảy ra trong thời gian và không gian xác định nhưng không phải vì vậy mà giá trị của nó bị thu hẹp. Những nhân vật Chí Phèo, Huấn Cao, Hoàng, ông lái đò... Là những hình tượng nghệ thuật  đặc sắc tạo bởi năng lực sáng tạo của nhà văn P.Pavlenko nói rằng: “Tôi thu thập hình tượng cũng như con ong hút mật vậy". Thế mà ta biết rằng một con ong phải bay một đoạn đường sau lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu lên năm vạn thứ hoa để làm nên một trăm gam mật (Theo “tờ hoa” của Nguyễn Tuân). Khó khăn biết bao khi người ta muốn vươn đến nghệ thuật thật sự. Thế nhưng mọi người vẫn không ngừng đi tìm cái đẹp, phong cách nghệ thuật độc đáo của riêng mình. Phải chăng quá trình ấy cũng đầy gian nan không kém gì lao động của các nhà khoa học. Nhà văn Nga Macxim Goorki cho rằng “văn học là nhân học”, vậy thì vượt gian lao để tìm đến sự độc đáo hoàn thiện của ngòi bút, đến “nhân học” chính là sứ mạng cao quý của những người cầm bút.

Lý Xuân Quyên

 (PTTH Chuyên Lê Hồng Phong - TP. Hồ Chí Minh)

Loigiaihay.com

Quảng cáo
close